Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

THÙY DƯƠNG NGUYÊN THỦY (Tiểu thuyết Nga)


I. Bài ca hồi ức trong thành phố mờ sương lam

Anh ráng sức mà chạy bởi anh biết chỉ vài phút nữa thôi là sự thể sẽ vô phương cứu vãn. Anh thấy ngạt thở. Bầu trời tím đen thấp sùm sụp tưởng như giơ tay lên là với tới . Những dải sương mù cùng muôn sợi khói đen sì vùn vụt lao tới và dường như khoảnh khắc cuối cùng mới vòng tránh mặt anh. Khuất sau dưới đồi ở dưới vịnh, một chiếc tầu ngầm đơn độc vừa tiến lại gần bờ vừa rền rĩ hú còi. Anh biết phía ấy yên tĩnh. Chỉ thấy thấp thoáng trên bến bóng mấy người đang lặng lẽ và uể oải nâng những vòi rồng lên xua khói ấy, bụi ấy cùng sương mù ấy. Nhưng sương mù vẫn cứ lấn tới. Và trên không trung, trong tĩnh mịch, vẫn rền rĩ vang vọng tiếng còi.

- Mối hiểm hoạ đe doạ không chỉ riêng họ. Nguy cơ vô hình đang đe doạ tất cả, bởi thế anh cùng người bạn mới phải ráng sức chạy và báo động cho mọi người. Mọi người đang ở cả trong toà nhà phía trước mặt kia, ngay trên mỏm đồi, chênh vênh trên vách bờ dựng đứng mà dưới chân là mặt biển. Bạn anh lộp cộp chạy ngay bên, cái bóng cao lớn sừng sững trên nền trời đen kịt.
Ngôi nhà trước mặt kia, kiến trúc kỳ quái, ảm đạm, âm u. Lâu đài không ra lâu đài, cung điện chẳng ra cung điện, trông tựa khối tinh thể giá băng. Người bạn không thể hay biết rằng Xêvêxin ráng hết sức chạy đến toà nhà nọ đâu phải chỉ vì mọi người, mà còn vì một người con gái. Nỗi lo sợ cho số phận của nàng khiến trái tim anh tan nát. Phải báo động kịp thời, để nàng, để mọi người kịp ẩn nấp và may ra sẽ thoát chết. Từ chân tường toà lâu đài trải xuống từng thảm cỏ thoai thoải. Chúng không vuông vức mà lại như từng nửa hình bầu dục, tấm nọ trải chồng lên tấm kia trông giống như lớp vẩy cá. Và màu cỏ không xanh rờn mà lại tím ngắt màu trời mây.
Sức đã kiệt. Vậy mà kia từ chân trời vẫn đang đùn lên, đùn lên mãi những cuộn mây còn đen tối hơn cả bầu trời, trông như những cây nấm bom nguyên tử, nhưng kinh khủng hơn gấp trăm lần.

Khi anh cùng người bạn chạy tới nơi và báo động cho mọi người thì té ra nàng không có mặt trong toà lâu đài. Lòng run lên bởi nỗi lo sợ điếng người cho sinh mạng của nàng, anh bổ đi tìm khắp nơi và chợt thấy nàng đang cắm đầu chạy trên cái thảm cỏ tím ngắt, cố rời xa toàn lâu đài, nơi an toàn duy nhất. Dẫu đã quá muộn mất rồi, những núi mây lừng lững bay về phía họ đã che kín cả bầu trời, nhưng anh vẫn lao theo nàng.

Những dòng thác đen ngòm đuổi kịp và vượt qua họ , bắt đầu vòng ngược lại như từng con sóng đại dương. Anh bế bổng người con gái lên, mang trở lại lâu đài. Anh biết rằng không kịp nữa rồi, may lắm thì anh với nàng cũng chỉ chạy được đến thềm đất trên bờ biển, nơi có lối vào tầng hầm bê tông của toà lâu đài. Nhưng anh vẫn chạy. Với người con gái trên tay, anh lao lên thềm đất . Đúng lúc ấy….

….Bầu trời nổ bùng, tan vỡ từng mảnh, và từ trên đó, nhằm thẳng đầu họ mà vun vút bắn tới những tia đen ngòm chói loà, trông tựa như những chuỗi sao băng màu đen hay những đường đạn lửa màu đen.
Trái đất ngập chìm trong trận mưa sao đen và bỗng từ đâu sừng sững hiện ra đoàn kỵ sĩ mang danh Tử thần. Nhưng điều khủng khiếp nhất thì anh chẳng kịp nhìn thấy.
Chỉ nghe tiếng âm vang tràn ngập vũ trụ.

- Ai? -Anh hỏi giọng lạc hẳn đi như thể đứt hơi-Ai?!
- Cậu sao thế, ngủ à?
Chỉ đến lúc ấy anh mới nhìn thấy khung cửa sổ, cái bàn, ống điện thoại sơn xám trong tay và chợt hiểu ra là anh đang nằm trên giường tại phòng mình, toàn thâm nhơm nhớp mồ hôi lạnh.
- Vaxin Paplôp đây. Cậu ngủ à?
- À à, Vaxin đấy và?- Anh cố làm ra vẻ bình thản- Mình gà gật một chút thôi mà.
Từ lâu anh đã tập cho mình thói quen che giấu người khác những cơn ác mộng của anh. Anh lấy làm xấu hổ về chúng. Chúng lặp lại quá ư thường xuyên và rất khác nhau, kể sao hết được.
-Cậu chưa ăn bữa trưa cơ à?- Cứ nghe giọng Vaxin đủ rõ cậu ta vừa đánh một giấc ngon lành-Vậy thì hay là chờ độ tiếng rưỡi nữa thôi rồi ta cùng đi ăn được chứ?
- Được. Vào mấy giờ? Ở đâu?
-Quãng ba giờ. Ở cảng được không? Chỗ quen biết ấy mà?
-Xong ! –Và anh đặt máy, đứng dậy.

Ngoài cửa sổ, thành phố Vladivoxtốc ngập chìm trong mưa. Những đám mây màu chì bay là là khắp mặt đất, kết thành một tấm màn dày đặc. Mây sà xuống thấp bao phủ đến lưng chừng dãy đồi trọc. Cả thành phố dường như cũng đổ mồ hôi dưới tấm màn xám xịt ấy. Ẩm thấp. Ngột ngạt. Mặt vũng Sừng Vàng lấp loáng ánh chì. Nhà cửa, cây cối , hình dáng tàu bè…. tất cả đều mờ ảo như trên những bức tranh khắc gỗ Nhật Bản.
Trong một ngôi nhà ở góc phố, dưới tầng thứ nhất, một con panh-goanh chúa trưng cái bụng vàng óng sau lớp kính cửa sổ. Một viện bảo tàng gì đó. Chắc chắn chú panh –goanh cũng thấy ngán ngẩm cái cảnh đứng ngắm trời mưa. Mưa. Mưa tầm tã. Lại vào đầu tháng chín mới lạ chứ. Như thể sau tháng tám trong sáng và nóng nực thiên nhiên trở lại với tháng bảy mưa sa.
Vậy là gió Nam, từ phía biển lại thổi tới, lại át gió Bắc thường thổi vào tháng tám, tháng chín, tháng mười và đem tới miền đất này ánh nắng chan hoà, hơi ẩm dễ chịu ban ngày, không khí mát lành ban đêm.

Anh vào buồng tắm, nhưng phải đợi chừng mười phút cho nước trở nên khá lạnh. Đứng dưới những tia nước xối mạnh lên ngực, lên vai, lên đầu, anh bình tâm trở lại, dường như nước lạnh khi rửa sạch mồ hôi nhớp pháp cũng cuốn theo cả hình bong hắc ám của cơn ác mộng.
“Tuyệt vô cùng! Sướng thật! Dẫu có phải cuốc một thôi ra cảng cũng không sao, cùng ăn với Vaxin vui hơn ngồi trệu trạo nhai một mình”

Anh làm quen với Vaxin Paplốp ngay tối đầu tiên đến đây. Tối hôm đó chẳng biết làm gì tiêu thời gian, anh tạt vào khách sạn trong cảng, ngồi giữa đám khách khứa ồn ào, lặng lẽ nhấp rượu vang, khi ngắm mặt vịnh lấp lánh ánh đèn sinh đôi bên các hạm tàu, lúc nhìn hình nổi sặc sỡ của một con bạch tuộc và một con cá nhà táng bơi đi bơi lại ở bức tường trên đầu tiệm giải khát.
Lúc ấy đang tiết tháng bảy, mưa dai dẳng đến mốc hết giày dép cất trong tủ. Không xỏ chân tới vài ba ngày- thế là xong đôi giày, cứ y như có ai đem nó ra sơn xanh lè. Chính bởi thế mà rượu ướp đá, mặt vịnh lung linh ngoài cửa sổ, đêm hè-chẳng gì ở khách sạn đem lại cho anh sự thư thái. Khí ẩm bốc lên khiến đầu óc nặng trịch, tay chân nhớp nháp, bẩn thỉu .
Bước ra rửa tay lần thứ hai, anh chợt trông thấy cạnh chỗ lavabo mấy thanh niên đang dồn ép vào chân tường một chàng trai chắc nịch. Mấy thanh niên đóng bộ nghiêm chỉnh, khốn nỗi những bộ com-lê đắt tiền khoác vào người họ trông cứ như yên cương thắng lên lưng bò: Chật nách, bó vai, cả chàng trai có thân hình chắc nịch xem ra cũng cảm thấy khó chịu trong bộ com-lê ngoại màu nâu xám. Hay đó chỉ là cảm tưởng của anh bởi vì mặt họ đều đỏ gay, chắc hẳn đã chếng choáng ma men, tức ở trạng thái sẵng sang cà khịa với nhau, tuy nhiên cuộc ẩu đả chưa hẳng chín muồi nên đôi bên cũng cảm thấy lúng túng, không rõ lắm họ nên động thủ ra sao.

Anh thấy thương hại chàng trai bị ép vào chân tường. Cậu ta người tầm thước, tóc hung hung, hai nắm đấm xiết chặt, cặp mắt xanh can trường quắc lên nhìn quanh như thể sẵn sàng thí mạng, hơn thua một phen.
-Này, sao lại ba bốn thằng đánh một thế?
Một thanh niên liếc nhìn anh, ngắm nghía từ đôi vai, bộ ngực, cả thân hình, như thể sờ nắn, liệu xem anh được mấy nả, đoạn nói xấc xược, nhưng không tự tin lắm:
-Thì can gì đến anh? Bọn ta định dạy cho thằng côn đồ này một bài học. Có muốn hộ một tay thì xin mời.
-Mấy anh xem ra học rộng tài cao, định dạy bảo chú em út kia gì vậy?
-Tao mà là côn đồ à? –Chàng trai như được củng cố tinh thần-Phó quán quân toàn miền mà là côn đồ à?! Bọn mày là côn đồ thì có, chứ đâu phải những người đánh cá voi! Đồ cặn bã!
“Dân đánh cá voi…Trông có vẻ thế thật. Chính bởi vậy mà cử chỉ mới gò bó trong những bộ com lê lạ lẫm và những bàn tay to tướng như bàn xẻng. Biết vậy mình đã chẳng dây với họ làm gì.

Nhưng giờ thì hối cũng muộn. Chàng thanh niên vừa mới ngắm nhìn anh, hỏi:
- Dễ anh tưởng bọn ta chỉ biết đánh cá thôi chắc?
- Không, đâu có.!- Anh cố trả lời thật bình thản- Đôi khi cũng nên để mấy anh đánh cá bị đánh cho nó cân bằng chứ.
Một chuỗi cười gằn lọt qua khỏi mấy cái miệng. Rõ ràng câu nói đùa được chấp nhận. Tuy nhiên khó mà lường trước kết cục sẽ ra sao, nếu như một trong những chàng trai đánh cá voi, một gã lực lưỡng cao ngót hai mét không bắt chuyện tiếp:
- Mày chỉ được cái giỏi ba hoa - Anh ta bảo chàng trai bị ép vào chân tường - Thử nhìn áo quần mày xem kìa. Không đầu trộm đuôi cướp thì là gì?
- Thì mày thử ngắm mình xem. Y hệt thằng tù mới xổng, trấn lột được một cha trí thức trong xó xỉnh nào đó. Rồi khoác bộ khoác vàng quần áo người khác lên mình mà ngao du phố phường. Thế mà cũng đòi lực sĩ!
Chuỗi so sánh tuôn ra tới tấp ấy khiến mọi người tức khắc tỉnh ra.
- Họ tên gì? Đừng có nói láo! Gã lực sĩ ề à.
- Thì Páplốp đấy. Can gì đến mày hả cái con cá voi nhớp nháp kia?
Tốp thanh niên như thể xịt ngòi. Gã lực sĩ ra vẻ độ lượng mói:
- Ối dào! Ta cuốc thôi anh em- và quay lại bảo chàng trai:- Chú mày tốt phúc đó. Cho sống tiếp, nghe.
- Dạ bẩm ông lớn, con xin gắng sức để ông lớn khỏi phải thất vọng ạ. Chàng thanh niên bẩm báo, đoạn đế thêm giọng châm chọc:- Đây cũng tha cho nghe.

Sau đó quay lại nói với người bất ngờ đến bênh vực, lúc ấy vẫn đang tiếp tục rửa tay: - Anh đừng vội đánh bài lảng. Chăng lẽ anh lại giống Pilat sao? Chia tay với “ông lớn” đi chứ. Bắt tay ông ta đi. Rồi rửa tay lần nữa cho sạch. – Cánh cửa sập vào đánh rầm. Chàng trai chìa tay ra: -Anh xuất hiện thật đúng lúc. Tôi ao ước đựơc làm quen với anh từ lâu. Tôi là Vaxin Paplốp.
- Xêvêrin Buđrix.
- A…. à - Paplôp làm như thể nhận ra. – Tôi cho rằng có lý do chính đáng để làm một chầu rượu.
Cậu ta bám theo Xêvêrin, ngồi vào bàn, gọi một bàn tiệc linh đình, đoạn ngồi dang cả tay chân ra, đốt thuốc hút.
“ Có lẽ đầu trộm đuôi cướp thật, - Xêvêrin nghĩ bụng.- Nếu xét theo mức độ trâng tráo và tự tiện. Lang thang ở cảng nhiều hơn ra khơi, tận hưởng thời gian tàu đỗ ở bến, sống gấp từng ngày. Chẳng có gì lạ là dân thuỷ thuỷ chính hiệu định cho một trận. Không hiểu ai sẽ chi cho thực đơn hắn vừa gọi nhỉ? Nếu hắn mở máy ba hoa, tức là mình phải chi. Hắn sẽ chi bằng những những chuyện bốc phét về Xanhgapo. Từ thủơ cha sinh mẹ đẻ mình chỉ ao ước tìm hiểu hạng này đây”.

Trong khi đó, chàng trai bình tĩnh lại, bỏ chai nước “Kuka” xuống, đưa cặp mắt xanh vô tư lự ngắm nhìn suốt lượt căn phòng. Và nói vu vơ vào không trung:
- Buđrix. “Buđrix sinh hạ được ba trai, cùng dòng máu Litva trong huyết mạch”. Thế ra anh người Litva? Họ Lítva, - Cậu ta nói như cái máy, giọng đều đều.
- “Gớm chưa, trích đọc thơ Mitkêvich cơ đấy….”
-Không phải họ Litva.-Xêvêrin đáp,- cũng bắt nguồn từ một tên chính thống là “Bactơlômei”, thôi “Bactơlômei, Backhơrim, Bapơruk, Buđrix”.
-“Chính thống” bằng tiếng gì thế ?
-Tiếng Bêlôruxia. Tôi quê ở Bắc Bêlôruxia.
-Xêvêrin Bactơlômei- Chàng trai lãnh đạm phân tích thông tin mới.- Xêvêrin Buđrix. Tiếng Belôruxia. Quê miền Bắc. Người Bêlôruxia.
-Anh sao thế? Nói cứ như người máy điện tử ấy. – Xêvêrin mỉm cười hỏi.
- Thế anh từng làm việc với người máy sao?
- Đã có dịp tiếp xúc.
- Tôi hơi bàng hoàng thôi. Mấy thằng chó chết ấy nó đánh thật đấy nhỉ?
- Nện thật đấy chứ,- Buđrix gật đầu.
- Thì tôi cũng bảo vậy, - Vaxin trở nên nghiêm nghị - Buđrix. Quê miền Bắc, Người Bêlôruxia. Còn tôi, tôi chẳng rõ mình gốc gác ra sao. Ở đây có cả ông Ukrain, cả bà Litva, cả tứ xứ anh hùng - Đoạn, đột ngột thêm: - Cụ nội tôi là đại tá mật thám cơ đấy!
“Bắt đầu đấy, - Buđrix nghĩ bụng. Tiền mình thế là đi đứt!”
Nhưng đa số những người rụt rè, hay khiêm nhường trước sự trâng tráo của người khác, anh lập tức chấp nhận chuyện mình phải chi tiền.
“Thôi cũng được. Mình có túng thiếu đâu? Vả lại, xét theo khúc dạo đầu, bản độc tấu tào lao này hứa hẹn nhiều điều kỳ thú đây. Mình cứ việc uống. May ra, nhờ rượu và sự mỏi mệt đêm nay sẽ qua đi yên tĩnh”.
Họ cùng cạn ly. Vaxin mời anh.

Món mực xào đây. Anh còn đang là tân khách, cứ phải thết của lạ mới nghe cơ. Món mực xào trông như những cái tẩy do một bàn tay thuỷ thủ làm ra. Tưởng sẽ dai như cao su, ai dè ngon ra phết. Vaxin lại cạn ly, đoạn với cặp mắt xanh vẫn tỉnh khô, anh nhắc lại như thể ngạc nhiên về điều mình nói:
- Đại tá mật thám…có điều ông cụ là một đại tá mật thám tốt bụng…Một đại tá mật thám tuyệt vời. Ông cụ…- bỗng anh phun ra một mạch, dường như đâm lao phải theo lao, dường như biết trước dẫu sao cũng chẳng ai tin: - Ông cụ từng mê cô Vêra Phikner (nữ chiến sĩ cách mạng dân chủ Nga)
"Gay go thật rồi. Điệu này phải gọi chai thứ ba mất".

- Thật mà. Một đại tá cảnh sát đứng đắn. Có cảm tình với đảng "Ýdân". Yêu Vera Phikner. Giúp đỡ những người cách mạng. Còn tôi bây giờ là phó quán quân. Và sẽ là quán quân. Đời nào tôi quy hàng chúng, Chả gì cũng nòi cụ nội đại tá. Một điều gì đó lãng quên đã lâu, cái bóng mờ nhạt của hồi ức mơ hồ thoáng qua trong đầu Buđrix. Qủa thực anh có đọc, có nghe ở đâu đó về một đại tá mật thám mà lại yêu…Vả lại, đâu phải chỉ một mình ông ta? Từng có nhiều người như vậy. Còn ông đại tá nọ hình như, sau bị đày đi Xibir.
- Xin lỗi, anh bảo anh họ gì nhỉ?
- Paplốp.
“ Hình như quả thực như vậy. Cứ cho là bốc phét đi thì muốn bốc phét được như thế cũng phải nghiên cứu sâu lịch sử. Anh chàng ba hoa này xem ra được học hành đến nơi đến chốn và khá uyên bác đây. Nghe hắn nói chắc phải lý thú”.
- Ông nội tôi đã mua một nữ nô lệ người đảo Giava. Thuở ấy, nơi đây đàn bà khan hiếm lắm. Thường có nhiều thuyền buồm, thuyền đinh, thậm chí ghe mảng cập bến ở vũng Ximêônôp. Ông tôi mua của họ. Mua cùng một mớ với buồng chuối và cái vỏ ốc to tướng. Kỷ vật ấy còn đến tận ngày nay. Tấy nhiên, buồng chuối ăn hết veo từ thuở ấy…
- Nhưng mà sau cải cách phế bỏ chế độ nông nô, những người theo chính giáo có được phép nuôi nô lệ đâu?
- Anh chưa hiểu. Bọn Tàu lại được phép.
- Té ra ông nội anh là người Trung Hoa à?
- Nói chuyện với anh đến chán. Hoa với quả gì! Ai bảo anh ông tôi là người Trung Hoa. Tôi mà giống Tàu à? Số là để khỏi làm con nô tỳ cho người Tàu, cô nàng mới bằng lòng để ông tôi mua. Trời ơi, có thế mà không rõ à? Ông cụ trò chuyện với cô nàng một hồi thấy cô nàng ưng, ông cụ mua luôn. Cô nàng vừa mới được dự do là tức tốc bị điệu vào nhà thờ. Cha cố, dĩ nhiên, vớ món bở. Người ta làm lễ rửa tội cho cô nàng, dắt đi quanh bệ thờ một vòng, rồi lôi thẳng ra tiệc cưới linh đình. Tóm lại đó chính là bà nội tôi. Nhưng mà này, anh bạn Buđrix thâm mến, cái món hải sâm này nhắm rượu tuyệt lắm.

Món hải sâm quả là tuyệt. Thịt nó mềm, ngon, vị hơi giống nấm, nổi lều phều trong nước sốt màu nâu, cho vào mồm là tan biến ngay.
Vaxin bỏ đi đâu đó ra ngoài, và Buđrix, của đáng tội, có trộm nghĩ là cậu ta chuồn. Nhưng chắt nội viên đại tá mật thám và cháu người nữ nô lệ dảo Giava đã trở lại phòng ăn, mang theo một chai Xakê, rượu nếp Nhật Bản-“theo đơn đặt hàng ưu tiên”.
- Rượu hâm nóng đây. Anh thấy không? Đố anh kiếm ra cái của này đấy! Vậy mà thuở xưa ở vũng này, cả đàn bà lẫn Xakê có mời cũng chẳng ma nào thèm mua. Thành phố đã để mất đi bản sắc riêng của mình. Nó đã trở nên khác hẳn. Mà cũng đội ơn đức Chúa trời là nó đã khác hẳn.

Rút cục, mọi thứ đều đã ăn sạch, uống hết, kể cả những câu chuyện ba hoa của anh chàng bạn hiền cũng đã cạn. Buđrix gọi cô nhân viên phục vụ và thọc tay vào túi áo.
- Trả tiền rồi, - Vaxin nói, giọng khô khan và có vể mệt mỏi.
- Sao?
- Trả rồi mà. Phải không, em Vêroska?
- Vẫn như mọi khi ạ?
Buđrix ngượng chín mặt. Thế mà anh đã vội nghĩ vớ vẩn! Gìơ đây anh đã hiểu rõ nỗi cô đơn của chàng trai kia cũng như lòng khát khao vô cùng tận của anh là được có người tiếp chuyện.
- Sao lại thế, - Buđrix nói, - tôi không tán thành đâu.
- Xin anh cứ tán thành cho, - Vaxin chăm chú quan sát người cùng đối thoại. Hình như đoán ra lý do khiến anh phải đỏ mặt.
- Nếu vậy thì ta uống nữa, - Buđrix nói- Tiếp tục nào.
- Bây giờ anh có thể cùng con người kia uống cạn cả đại dương, miễn sao cái biển rượu ấy gột sạch cảm giác hổ thẹn đang day dứt lòng anh.
Thực đơn lại được tiếp nhận.
- Có nhiều tiền kể cũng khoái, - Vaxin nói có vẻ ngây thơ và láu lỉnh. – Ví thử tôi không có một xu dính túi. Hay anh cũng vậy. Tôi sẽ không ngồi vào bàn. Anh thì bỏ về…Đời sẽ thiệt một đôi bạn hiền. Bởi như thế sẽ chỉ có vị cứu vớt một tên côn đồ, một công tử “Tây phương” kiêu kỳ. Và một tên côn đồ…- Cậu ta hất mái tóc, nói tiếp sau một phút im lặng: - Tôi không phải một tên côn đồ, anh Buđrix ạ… Cái khổ của tôi là bảy tháng liền phải chết dí ở đây, tôi lang thang các quán rượu, ngày làm công nhật kiếm tiền, trong khi lẽ ra tôi phải được đi biển. Khốn nỗi chuyện đó đối với tôi giờ đây còn xa vời hơn cả măt trăng. Có thể, không bao giờ nữa. Anh bỏ quá cho, tôi không thể nói rõ hơn.
- Cả anh cũng tha lỗi cho, -Buđrix. – Tôi cũng vậy.
- Họ bắt tay nhau.
- Hình như sức khoẻ của anh không ổn… Vaxin nói.
- Vừa không đuợc khoẻ vừa buồn bực lắm.

Cặp mắt xanh biếc mỉm cười thông cảm.
- Thôi được…chuyện tông tích tôi còn thế này nữa cơ…Hồi Nhật chiếm đóng. Ông bảo quê ở miền Nam nước Nhật đảo Ôkinôxima. Ông chả giống mẹ một chút mà: mắt hơi xếch, nước da mai mái. Chút xíu thôi, nhưng dẫu sao tông tích vậy là cũng thuộc nòi Nhật Bản. Anh chàng Nhật bản ấy biết đến mấy thứ tiếng :Nga, Anh, ít tiếng Trung Quốc, rồi tiếng Triều Tiên và cả tiếng Nhật nữa…Ông hoạt động cho ta mà.



Câu chuyện mỗi lúc một đậm đà, thẳng thắn hơn không còn chút dấu vết gì của sự gượng gạo, nghi ngại ban đầu. Phần do câu chuyện đưa đẩy, phần vì muốn xua tan cảm giác khó chịu lúc đầu gặp gỡ, cả hai đã nốc rượu hơi nhiều trong buổi tối hôm ấy.

Chí ít ra cuối buổi, khi những trống, những kèn cùng cả dàn nhạc đột ngột vang lên và cả phòng ăn bắt đầu phụ hoạ theo, nhấp nhổm, rậm rịch Buđrix lấy làm ngạc nhiên thấy mình cũng gào thét hết cỡ và nếu như còn chưa xông ra nhảy thì chỉ vì không dám chắc mìmh nhảy có nên hồn không.
Mỗi thành phố cảng đều có bài hát riêng, kiểu như một bài ca chính thức mà mỗi khi cất lên thì đố ai ngồi yên được. Ai không chồm dậy, tức khắc bị xem là kẻ phản bội quê hương, hay chí ít ra cũng là kẻ láo xược, dám phỉ nhổ vào mọi truyền thống thiêng liêng của quê cha đất tổ. Cũng như thể ở Mỹ mọi người thường nói: “ Chẳng thà anh cứ nhổ tọet vào tượng Oasihtơn còn hơn là làm như thế”.

Nơi đây, khúc ca như vậy là một bài hát mộc mạc cổ xưa về cô gái “Si mê-ê cha-àng thuỷ thu-ủ!!!”
Anh không phải thầy lang!
Chẳng phải anh bán thuốc!
Chẳng phải gã lái buôn!
Tôi khóc, nhưng chẳng tiếc!!!
Rằng không yêu Jokê
Rằng chẳng mê hàng thịt
Chỉ mê chàng Thu-y Thu-ủ!!!


Họ hát hăng say, say sưa đến cuồng nhiệt:
Chỉ anh biết mây ngủ nơi nao
Chỉ anh hay bão ẩn chốn nào
Và khi nào hoa chuối nở
Trên quần đảo Ha-oai


Cảnh vật xung quanh như trong sươngmù và Buđrix hình như lẫn hộn lung tung lời ca:
Ôi anh thuỷ thủ, biết bao giờ
Anh mới trở về phố cảng?
Chàng thuỷ thủ lênh đênh biển khơi
Như mây lang thang bốn phương trời!


Các chàng trai săn cá voi giậm chân thình thịch, như thể đi những đôi ủng nặng hàng pút. Từng cặp từng cặp vụt qua trước mặt Buđrix, có cả các vị thuyền trưởng đầu tóc đã bạc phơ. Trông chả khác gì điệu nhảy của thổ dân da đỏ hoặc vũ khúc của đám người bị cấm nhảy múa hai chục năm liền.
Chỉ mê-ê cha-àng thu-ỷ thu-ủ!!!
Buđrix thấy Vaxin nhún nhảy, mặc dù vẫn ngồi tại chỗ. Bài hát hơi thô thiển, vậy mà vẫn khiến cậu ta phấn chấn một cách chân thành. Điều đó chứng tỏ rõ ràng nhất Vaxin là dân bản địa gốc, tổ tiên từng chôn rau cắt rốn ở thành phố cảng này.
Đồng thời với ý nghĩ ấy, Buđrix chợt nhận ra miệng anh cũng đang hát theo điệp khúc của bài ca.
- Thế là cậu cũng được chịu lễ rồi đấy- Vaxin nói- Gìơ, cậu coi như được rửa tội rồi.:
Tiếng “cậu” có nghĩa như một sự công nhận từ nay Buđrix Xêvêrin là “người mình”. Qua bài ca mộc mạc này anh như thể ghé nhìn được tận tâm hồn của thành phố cảng. Từ đấy anh kết bạn với Vaxin Paplốp. Chẳng bao lâu sau anh nhận ra rằng anh hoàn toàn không quan tâm đến chuyện Vaxin có khoe khoang hay không, bốc phét hay chỉ ba hoa chút xíu. Bởi vì anh đã nhìn nhận ở người bạn mới một phần linh hồn của thành phố cảng- cái linh hồn là cỗi rễ của nó: vừa tháo vát, vừa hiếu động, quả cảm và khí huênh hoang, gai góc nữa, làm việc thì hung hục và luôn sẵng sang thi thố những chuyện không ai tưởng tượng nổi.

Đó không phải chỉ là cái váng đọng trên bề mặt thành phố nào cũng có, mà ở đây cũng chẳng hiếm. Cái Buđrix phát hiện ở Vaxin chính là tâm hồn người tiên phong mở đường. Bây giờ anh chẳng bận tâm chuyện Vaxin có là quán quân hay không, cụ tổ cậu ta từng yêu Vera Phicker hay đó cũng chỉ là thứ tiếng “Nhật Bản”, như bà nội thổ dân Giava.
Thế đấy. Và bây giờ Vaxin lại vừa mới gọi điện.
Còn sớm, nên Buđrix đi bộ hai trạm xe buýt, rẽ ra vịnh để qua cảng ra bến tàu
Nước vỗ ì oạp giữa các mạn tàu. Mặt nước lềnh bềnh những thùng , hòm với các hang chữ viết bằng đủ thứ tiếng, dập dờn những dây rong biển. Mùi vị của nước biển ở đây mằn mặn, sặc mùi dầu mỡ- đầy mặt nước loang lổ ngũ sắc cầu vồng!- Nồng nặc mùi rong rêu thối mục- Cái mùi vị ấy dường như lan tràn khắp thành phố.

Có mấy người ngồi trên thành bến câu bằng mồi tôm. Buđrix đứng lại xem. Thỉnh thoảng từ dưới lớp màng ngũ sắc sặc sỡ ngăn đôi đất trời, họ kéo lên những con cá hồng . Chẳng hiểu cá có bị ám mùi xăng không?
Đột nhiên, nỗi nhớ quê da diết đâm nhói vào tim như một lưỡi dao nhọn hoắt.

“Cá hồng. Một giống cá biển. Cũng có ở sông. Ở quê mình. Ở đấy, người ta câu nó dưới làn nước trong vắt ở hồ. Hồ Ôxvêi. Hồ Narôtra. Rồi một cái hồ nào đó nữa mang một cái tên Hồ vui hay hồ Con gái. Ở sông Lutrêxa. Cả ở sông Đơnheprơ nữa. Trời ! sao tôi lại lưu lạc đến chốn này nhỉ? Phải chạy về phương trời kia chứ! Phải về đó chứ! Tôi đi xa nơi ấy từ tuổi bé thơ. Nhớ nhung khôn xiết! Thế nhưng “sếp” lại bảo: “ Thế này nhé: chúng tôi dành cho đồng chí một thời gian khá dài để đồng chí phục hồi sức khoẻ. Đồng chí hãy nghỉ ngơi, chuồn cho thật xa tít mù tắp, như người ta thường nói. Yêu đi, câu cá đi nếu muốn- rượu chè bí tỉ cũng được. Miễn là đồng chí trở lại trạng thái bình thường như trước… Tóm lại, muốn làm gì thì làm. Nếu không tôi e rằng chúng tôi sẽ mất đồng chí mất thôi. Vậy mà chúng tôi, riêng tôi nữa… rất không muốn điều đó phải xảy ra. Tôi để mắt tới đồng chí từ khi đồng chí còn ngồi trên ghế nhà trường kia - Chắc sếp đột nhiên mất hứng, ông đưa mấy ngón tay lên xoa xoa cái mũi chim nhọn hoắt. - Đồng chí không ngờ à? Ra thế đấy. Đồng chí được tuyển dụng vào nơi cần thiết bởi vì tôi, chúng tôi đã nghe nói tới đồng chí, nên từ đấy chúng tôi đã theo dõi… Sau này tôi cứ quan sát đồng chí và mừng, tôi biết mình đã được một người có thể…”

Tiếp theo, ông buồn bã phẩy tay. Hai người ngồi nói chuyện trong gian phòng làm việc to rộng trống chếnh của sếp, nơi ông rất ít khi có mặt. Một điều hoàn toàn khác thường nữa là, vốn chẳng bao giờ thích uống rượu, thế mà hôm ấy sếp lại lôi từ đâu lên bàn một chai Cônhắc với hai cái ly. Họ cùng cạn một ly, rồi ngồi nói chuyện tào lao, thành ra “giết” cả một ngày, bởi vì cả hai đều không thể làm việc được nếu đã uống dẫu chỉ một ngụm rượu. Sau đó sếp- một người chưa hề giãi bày với ai nhứng điều như vừa nói với anh – nút chai rượu lại.

- Thế đấy, kiệt sức rồi. Tôi rất hiểu. Mệt làm sao? Thần kinh căng thẳng, mất ngủ, những cơn ác mộng phải không?
Buđrix lặng lẽ gật đầu. Bỗng chai rượu nổ “bốp “ cái nút lên trần. Anh cán bộ khoa học trẻ giật bắn mình, làm bộ mặt sếp dài ra và khoé mắt vụt ánh lên một vẻ kỳ lạ, một nỗi lo âu kín đáo, một sự cảm thông sâu sắc. Anh lại có cảm giác nó giống mặt chim, chăm chú và sợ sệt. Nhưng ông tức khắc cố gắng xua đuổi tâm trạng yếu đuối ấy. Sếp cười khẩy:
- Nó nhắc ta rót nữa đây. Giỏi lắm, nào thì rót.

Sếp cạn ly, đoạn nói đột ngột nói với một giọng trìu mến và lo lắng mà đến tận bây giờ Buđrix không thể nào quên được.
- Chuồn càng xa càng tốt. Nghỉ cho thật thoải mái. Cố gìn giữ cái đầu con ạ. Có cái đầu như thế mà không biết giữ gìn là phạm tội đấy. Thôi, đi nhé! và phải trở về khoẻ mạnh đấy.
Ông ôm hôn anh. Và cả điều đó nữa cũng chưa từng có, kể từ ngày khai thiên lập địa cái thế giới riêng của họ, nơi cũng có thượng đế riêng cùng những thánh nhân tử vì đạo.

…. Anh chuồn quả là xa. Nhưng có lẽ không đúng phương trời anh cần đến. Kể cũng lạ, song thực tình chỉ sau câu chuyện với sếp anh mới ý thức rõ tình trạng của anh quả nghiêm trọng, gần như vô phương cứu vãn. Cả cơ thể vốn cường tráng, cả cái đầu xuất chúng (giờ đây, khi mà đôi lúc anh còn hiểu nổi những điều đơn giản nhất và thương phải ngồi ngẩn ra cả nửa tiếng đồng hồ mới thâu tóm được một ý nhỏ, một công thức hay một sơ đồ, thì anh chẳng việc gì phải ngần ngại trong cách nhận xét về bản thân anh trước kia), rồi trí nhớ, rồi cả trực giác nhạy bén nữa- Tất cả thế là tiêu ma. Bộ máy phức tạp của cơ thể anh đã hỏng hóc ở một bộ phận nào đó. Chỉ thảng hoặc nó mới phục hồi được công suất mạnh mẽ khi xưa, còn thì anh thường thấy thần kinh căng thẳng, cơ thể nặng nề, mệt mỏi từ sáng sớm. Đêm nào cũng khủng khiếp…

Anh bước đi dưới mấy cái cần cẩu “Xunaimôtô” chân đứng khòng khòng như thể ngồi xổm xuống nghỉ ngơi chốc lát sau một ngày mang vác cực kỳ nặng nhọc. Trên mặt nước, giữa đám rác rưởi cạnh hồ, bông bềnh một quả bóng của trẻ em, bóng lộn như trứng gà bóc trên điện thờ. Nó ở đâu ra nhỉ? Sóng nước đưa nó từ đâu tới vâyj? Từ bến bờ Triều Tiên hay Nhật Bản? Hay từ những mỏm đá lầm lì trong sương mù miền Tiêcnêi?

Chảng hiểu vì sao, không có một chút liên hệ logich nào với những ý nghĩ đó và trước đó nữa, anh sực nhớ đến dòng sông quê hương, mặt hồ quen thuộc và bản thân anh, một cậu bé nơi thôn dã. Nói gì thì nói, dẫu sao cậu bé quê mùa ấy đã phải gánh lên đôi vai bé thơ một tải trọng quá sức: “thần đồng”, “năng khiếu đặc biệt”. Đâu phải lỗi tại cậu, nếu như ngoài ra tạo hoá còn ban cho cậu đôi mắt luôn khao khát ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên muôn màu, đôi chân luôn háo hức những nẻo đường xa, và một trái tim lúc nào cũng bồn chồn ngóng đợi những chuyện diệu kỳ? Chắc hẳn, lẽ ra nên thả sức bay bổng, cho con tim chứ không phải cho cái đầu; trong cuộc tranh giành với con tim, cái đầu của anh hẳn đã kiệt quệ nên mới hỏng hóc vào đúng lúc anh ngạo mạn cho rằng đối với bộ óc của anh không còn gì là không thể đạt tới. Phải chăng anh sẽ không hạnh phúc hơn nếu như biết sống vẹn cả đôi đường? Ví thử anh trở thành một thuyền trưởng chả hơn ư? Đây kia làm thuyền trưởng cái tàu con hùng hục xuôi ngược kia kìa (tên nó là gì nhỉ? “Oócsa” (một tỉnh lớn của Bêlôruxia). Lại chúa! Tận góc biển chân trời này cúng có “Oócsa” quê tôi). Tha hồ mà loay hoay với máy móc, với con số, tha hồ mà suy nghĩ, mà sáng chế cải tiến (và được mãn nguyện nữa), đồng thời lại được hoà mình với biển cả, với không gian mênh mông, được sống giữa tình người bình dị, vui cái vui mộc mạc mỗi khi đón gặp con tàu đi ngược chiều, để rồi phút sau, mỗi tàu mỗi ngả, chỉ còn thấy trong đêm đen nhấp nhoáng xa dần ánh đèn tìn hiệu trên tận đỉnh cột buồm…

….Những hòn đảo xa lạ- Anh ngồi lặng đi trước vẻ đẹp thiên nhiên. Gía như bộc bạch được những nỗi niềm anh đang cảm với mọi người! Nhưng trong đời, anh chưa từng đặt nổi một vần thơ. Bởi vậy mà bao nỗi niềm chưa dốc ra được, chưa nói lên thành lời, đều ứ lại trong lòng, tràn ngập tâm khảm, và vì không tìm ra lối thoát nên đã thúc bách anh mơ mộng về những chân trời xa lạ, về lẽ công bằng tuyệt đối, về những người đàn bà tuyệt diệu, về chân lý, giản dị như vần thơ vĩ đại, về những rừng rú hoang sơ bí ẩn, về những thảo nguyên bát ngạt hương như một vườn đầy hoa, về lòng nhân bất biến, về hạnh phúc tràn trề. Nhưng không một điều trong bấy nhiêu ước vọng trở thành hiện thực, rút cục gánh nặng ấy đã đè bẹp anh. Không thể kìm hãm vĩnh viễn những ước vọng thiêng liêng nhất, sự bùng nổ tất yếu phải xảy ra.
Như trong rừng sâu, anh lạc mất đường giữa những toà nhà đá, giữa những dãy máy móc và con số. Chúng đã trả thù anh một cách tàn nhẫn.

Buđrix chợt nhớ đến bức tranh biếm hoạ cay độc anh đã xem trong một tờ tạp chí kỹ thuật của Mỹ. Một cỗ máy khổng lồ với hàng chục nghìn nút bấm, cần điều khiển, và lọt thỏm trên bệ máy là một hình người tí xíu đang phủ phục hí hoáy chữa chạy gì đó. Thoạt tiên anh chưa hiểu ra ngay ngụ ý. Chuyện ngày nào chả thấy, có gì mà châm mới biếm! Nhưng xem kỹ hơn anh mới phát hiện ra phía dưới thắt lưng thằng người cắm một chìa khoá nhỏ kiểu vẫn dùng để lên dây cót ở những chiếc ô tô đồ chơi trẻ con. Qủa là một nụ cười ác độc! Tuy nhiên, cũng có một phần chân lý. Như thế đấy, anh bạn Buđrix thâm mến, anh cũng hết cót rồi. Liệu có đến lựơt anh được lên dây cót không? Loại người còn đang xếp từng hàng dài vô tận kia.

Trong lúc làm việc hay vào những đêm mất ngủ, khi trước mắt chỉ còn thấy quầng sáng của ngọn đèn đêm hắt xuống tờ giấy cùng những con số, hay trong buổi tranh luận khi mọi người viện dẫn cả cả chuỗi công thức để mỉa mai, giễu cợt đối thủ, dồn đẩy ý kiến sai lầm của anh ta đến chỗ lố bịch… những lúc ấy thỉnh thoảng anh lại hồi tưởng đôi ba cảnh bình dị nhất: Bầy ngựa lông hung hung đỏ giữa đồng cỏ ngập nước, dãy dồi trọc trong sương mù ban mai, một chú hải ly lặn vội xuống nước ngay trước mũi thuyền… Ở các nhà văn viễn tưởng, mọi việc trở nên hấp dẫn hơn, bởi vì họ lo giải đáp những vấn đề khác, trong đó quan trọng nhất là vấn đề “cái con người” và “tính người”, vả lại, họ vẫy gọi chúng ta đến những bến bờ khác.

Còn anh, anh lại mơ ước về những điều đã không thành, những điều sẽ không thể có, về một cuộc sống tràn đầynhiệt huyết. Và bởi lẽ những điều đó đã không trở thành hiện thực, nên những con ngựa lông hung hung đỏ mới trả thù anh.

Anh nhớ lại buổi đầu gặp gỡ với thế giới khoa học rộng lớn. Ngày ấy người ta đem xe buýt đến chở ỡu thiếu niên các anh đi tham quan Viện Đupna. Cái lũ thiếu niên ngày ấu tràn trề hạnh phúc vì còn non trẻ, vì (giấu giếm làm gì!) biết mình có năng khiếu đặc biệt, vì những ước vọng và triển vọng xa xôi. Chúng tưởng có thể làm được tất cả. Nhưng riêng anh, ngày ấy anh đã cảm thấy một sự phân tâm. Phía bên trái đường đi là hàng cột thép ngất ngưởng kiêu hãnh dăng ngang trời những đường dây điện cao thế, phía bên phaỉ là Trấn Đơmitơrôp- vết tích một thành phố xưa kia từng cạnh tranh với cả Matxcowva, vậy mà nay tất cả vẻ hùng vĩ xưa chỉ còn lại một ngôi nhà thờ cổ, quét nước vôi trắng, thấp lè tè. Buđrix không biết anh quý cái gì hơn: bài tráng ca vang vọng phía bên trái hay phúc bi ca thâm trầm phía bên phải.

Ngày ấy, tất cả đều khiến bầy thiếu niên tài năng phải sửng sốt: bản thân thành phố khoa học, máy xincrôfazôtrôn như một lũy thép tròn khổng lồ, máy xinclôtrôn và phòng điều khiển. Tất cả đều vĩ đại đến kinh ngạc. Vậy mà cậu bé Buđrix vẫn không sao xua được khỏi đầu mình một ý nghĩ là xung quanh cái vương quốc lạnh lẽo ấy cả máy móc cùng khối năng lượng lớn chưa từng thấy, bị dồn ép vào giữa lòng sắt thép và bê tông, - xung quanh vẫn trải rộng rừng xanh bao la và chắc chắn nơi đó, những con gà rừng vẫn đang gáy.
Tia lửa ngọc bích trên màn ảnh ở bảng điều khiển kiên trì tiến lên, tiến lên không gì ngăn cản nổi, rồi bỗng khựng lại, rơi chéo sang một bên. Ngày ấy, họ trẻ trung biết bao! “Gienus” tuyệt diệu, người đồng hương, bạn nối khố, tấm lòng vàng! “Gienus” sẽ không đời nào phải khổ tâm vì nỗi muốn nói lên điều gì đó sâu sắc mà không nói nổi. Ở cậu ta năng lượng mãnh liệt và sức sống dồi dào như luôn sục sôi. Cậu ta biết rõ phải làm gì với tài năng trời phú cho, và chẳng hề bị ám ảnh bởi mặc cảm nặng nề dường như mình có lỗi về điều gì đó.

Ngày ấy, anh chẳng những đã nhìn thấy nhiều hơn họ, mà còn luôn miệng châm chọc, cười đùa ứng khẩu tuôn ra hàng loạt vần thơ nhại và những câu ca vô nghĩa đến ngu ngốc.
Chẳng hạn, “tình ca vật lý” nhại những bài hát ngày ấy về tình yêu, chẳng hiểu tại sao thường không nghiêm túc về tình yêu mà lại luôn mang giọng điệu mỉa mai, cười khẩy. Có mà quỷ biết, mọi người hết biết yêu rồi hay sao?
Cái anh chàng “Gienus” luôn mồm nghêu ngao những bài kiểu như :
Đôi ta định ra đứng ban công
Thì vào nhầm Xincrôfazôtrông
Rồi có cả Tử ca “vật lý” nữa:
Rượu, ta nốc cạn ba bi –đông
Tơ- rum-tu-rum-tu-rum
Chúc sức khoẻ Xiclôtrông
Tơ- rum-tu-rum-tu-rum.

Này, Gênka không còn nữa. Vài năm sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, trong một lần làm thí nghiệm rất thành công, cậu ta đã lãnh đủ, không còn cách gì cứu chữa nổi…
Ngày ấy, lúc chiều tà họ cùng ngồi trong câu lạc bộ, thâm chí, lần đầu tiên trong đời, họ uống rượu và cùng ngồi với họ có một bác học nỏi tiếng người Ý gầy gò, gương mặt rất trí thức có vẻ mệt mỏi. Hai đứa đứa con của ông gần như đã thành dân Nga, suốt ngày đuổi bắt chim cu với bạn bè cùng lứa tuổi.

Buđrix bỗng muốn làm đẹp lòng ông, cả Gênca cũng vậy, nên cậu ta nâng cốc nói:
- Thưa bác Brunô Măcximilianôvich, chúng cháu xin nâng cốc chúc đất nước Italia!
Thế là anh, Buđrix, liền tiếp lời:
- Xin chúc quê hương chủ nghĩa nhân đạo!
Nhà bác học mỉm cười với họ, vẻ mặt chân thành và thoáng gợn buồn.

Cội nguồn của mọi cội nguồn, tuổi thanh xuân, niềm vui và sự tươi mát của tôi, mối tình thủa niên thiếu, “Gienus” sống động và vui nhộn của tôi! Tôi làm chuyến đi xa này để giành lại các bạn, dẫu là chỉ ở trong trái tim tôi. Tôi đứng ngắm biển Nhật Bản, nước xanh ngắt trong như thuỷ tinh, xô sóng vỗ vào những núi đá đen xì, bồng bềnh con tàu đơn độc ngoài vũng Chêchukhơ; tôi nhìn thấy thuỷ chiều dâng lên ngập chiếc ô-tô và thấy một chú chuột cắm đầu trốn chạy con nước, chẳng còn kịp suy tính gì, cốt sao thoát thân. Màu lông con chuột cũng lạ, trắng pha vàng.

Tôi đi dạo trên những súc gỗ dọc con sông miền rừng Taiga, nước vàng ệch chảy xiết. Tôi xua đuổi những con chuột beo màu da cam. Chúng treo lộn đầu trên cành mặc dù tôi đứng lặng cách chúng chỉ hai bước; chúng dương mắt nhìn tôi- Những cặp mắt như mắt nai long lanh, ươn ướt và quá to đối với con vật nhỏ bé như vậy. Tôi leo lên tảng đá giữa rừng Taiga và đứng treo leo trên đó như thể một cong ruồi đậu trên đỉnh một tảng đường. Tên tảng đá đó là Khaluza, và trái tim tôi chết lặng đi trước gió lộng và tầm cao, những cây tuyết tùng dưới chân núi trông chỉ bằng que diêm. Tôi đã nếm mật ong tại các trạm nuôi giữa rừng Taiga, đã lang thang khắp các thành quách hoang tàn của vương quốc Bôkhai xưa. Tôi lao đi đón những ráng chiều đỏ rực, và tôi đã tưởng mình bắt đầu hồi tâm… Vậy mà tất cả những gì tôi mất bao công sức gây dựng, phút chốc tan tành chỉ bởi một đòn.
Và giờ đây, lại thêm cơn ác mộng ấy nữa.

II. Bài ca sao biển - Tố nữ cùng hội hoa đăng

Anh đứng ngắm biển trên bờ cao, khuỷu tay tì lên lan can xây có trang trí những hình nổi cá heo. Mắt anh nhìn xa xôi. Đợt mưa dài đã dứt, mùa thu duyên hải, vàng rực và ấm áp đã trở lại miền đất này, trở lại với núi đồi, với những sườn đảo um tùm cây cối.

Dưới chân anh là bờ dốc dựng đứng đá bazan, cao đến năm chục mét, đôi chỗ mọc cheo leo vài lùm cây bụi cỏ. Tiếp đến, một dải cát hẹp, rồi là mặt vịnh bao la xanh ngắt. Dãy đồi ở bên kia vịnh, thường ngày bị mây mù hay màn mưa bao phủ, hôm nay trông rõ mồn một đến từng gốc cây. Không khí chan hoà ánh nắng trong suốt.

Hôm nay là ngày kỷ niệm chiến thắng phát xít Nhật. Trên mặt vịnh sẽ có bắn pháo hoa nên một đơn vị hạm đội đã ra vũng tàu. Buđrix đứng đấy đã một tiếng đồng hồ và còn định tiếp tục đứng chờ tại vị trí đó. Chẳng phải tại anh sợ mất chỗ - đương nhiên nó rất thuận tiện cho việc quan sát. Điều chủ yếu là đứng đó thật dễ chịu, thoả thích ngắm các hạm tàu, biển cả, núi đồi. Vừa ngắm nhìn, vừa suy nghĩ, vừa cảm nhận bằng cả cơ thể ánh nằng cùng làn gió mằn mặn mơ hồ mơn trớn làn gió mới kỳ lạ. Mùi vị ngai ngái tan biến cùng với nước mưa, trong không khí thoang thoảng hơi ấm khô ráo và hương tuyết tùng từ những khu rừng xa tít tắp tận bên kia bờ vịnh. Rồi muối nữa, liếm môi thấy có vị mằn mặn. Trước mặt anh là phần đại dương gần như mặn nhất trên trái đất này. Những ba mươi tư gram muối trong một lít nước. Thậm chí ở trong vịnh này cũng chỉ nhạt bớt có hai gam thôi. Mặn hơn biển Bantích và Kaxpia đến năm lần, và hơn Hắc hải hai lần. Biển nơi đây như vậy đó!

Nhìn sang phía bên phải, anh thấy vũng Ximêônôp cũ, nơi xưa kia Trời đem bà nội tương lai đến cho Vaxin Paplop. Ngay dưới chân anh là bãi tắm thuỷ thủ, rào ngăn hẳn hoi. Hôm ấy Vaxin dặn anh đến đây và đợi chừng một tiếng: cậu ta còn mắc giải quyết một công chuyện…
- Đến bãi tắm công cộng có hơn không?
- Đông chết… - Vaxin nhăm mặt, - đục ngầu nữa. Lại không có những bờ cao. Đá lại sắc nữa chứ…Đây có như bờ biển Hắc hải nhà anh đâu.
- Thế ở bãi thuỷ thủ tốt hơn à?
- Ít ra cũng có cầu tàu. Thích thì cứ việc đứng trên đó mà nhảy cắm đầu xuống.
- Ai cho!
- Gì cơ? Xì ra mười Kô pêch là xong tuốt.
Qủa thật ở đây hay hơn bãi tắm công cộng. Cái chính là vắng vẻ. Thỉnh thoảng mới xuất hiện vài chiến sĩ hải quân. Họ luyện tập dưới sự chỉ huy của thủy thủ trưởng chừng hai mươi phút. Rồi lại không một bóng người. Thật khoan khoái mỗi khi đứng trên cầu cao nhảy ùm xuống nước, ngoi lên, tay quạt phải những con sao biển trăn trắng trơn tuột, sau đó lại trèo từng bậc thang leo lên cầu tàu mà nằm phơi mình trên những tấm gỗ nhẵn thín âm ấm, lát gần như kín bờ biển đến tận sát mép nước.

Vaxin mãi chẳng thấy đến.. Buđrix đi lại trên thành bến leo lên cầu tàu, lặn xuống đáy biển tìm bắt những con sao biển. Lần nào lặn anh cũng ước lượng nhầm độ sâu vì nước biển trong xanh đến kỳ lạ.
Những con sao biển không mềm nhũn, mà cứng ráp như san hô và như thể vật vô tri vô giác. Anh mò được cả một lô, rải chúng ra khắp sàn gỗ, chăm chú quan sát mà vẫn không phát hiện một cử động nhỏ nào. Chỉ sau khi nhìn đi chỗ khác một lát rồi quay lại quan sát mới thấy con này co một cánh sao, con kia duỗi thẳng các cánh ra. Cái lũ kẻ cướp ấy chỉ bộc lộ uy thế khi tấn công những kẻ còn ít năng động hơn chúng. Buđrix mò được cả một vài vỏ sò rỗng ruột có những lỗ thủng nhỏ tròn trịa- Ấy là vết tích con sao biển để lại. Nó bò lên phủ kín mình sò, rồi tiết ra một giọt axit làm tan vôi, sau đó luồn qua lỗ thủng những cái chân nhỏ xuíu giống con giun, móc thịt sò ra ăn.
Như thể để trừng phạt tụi sao biển về tội ăn hiếp kẻ yếu. Buđrix lật ngửa chúng lên, dùng dao cạo sạch hàng chân giun ở mặt dưới mỗi cánh. Nhưng làm xong, anh chợt hiểu là mình đã tàn sát vô ích lũ sao biển, bởi vì chẳng có chỗ nào để phơi chúng, mà cứ mang ướt như thế thì gãy hết cánh.

Anh ngồi ngắm chúng không biết chán. Có những con nhỏ chỉ bằng ổ cắm điện, cánh chỉ hơi nhú ra, màu xanh nhạt phơn phớt da cam: có những con to như cái đĩa lớn, màu san hô; có màu đỏ tía và đỏ rực; lại có cả màu tím sẫm, óng ánh. Màu sắc thật phong phú, huyền ảo! Đến ngay cả đồng chí Trung cộng chắc cũng phải đồng ý vẻ đẹp này thuần tuý vị cái đẹp. Bởi vì sao biển gần như là sinh vật duy nhất không thể ăn được. Câu ngạn ngữ “ Trong loài bò sát giống không thể ăn được là xe tăng”, lẽ ra có thể bổ sung “và sao biển”. Nhưng như vậy thì đâu còn là ngạn ngữ.

Cuối cùng, Vaxin cũng đã đến.
- Cậu làm cái trò gì thế?
- Thế đấy, đẹp như vậy mà mình làm phí hoài cả.
- Sao lại phí hoài? Ta mang chúng vào nhà triền phơi lên xà. Chỉ một tuần là khô cong, mà vẫn như còn sống.
Anh cùng Vaxin đã làm như vậy, sau đó Vaxin đề nghị:
- Ta đi một lát chứ?
-Đi khỏi đây bây giờ, tiếc lắm. Tuyệt thật…Dẫu có gió nhưng vẫn tuyệt.
- Thì có gió mình mới mời.
-Gì cơ?
-Đi mà. Mình phải chứng minh mình là phó quán quân, tương lai là quán quân chứ!
- Về thể dục đi bộ à? Mình đuổi kịp cậu sao được, cho nên mình chạy theo cậu làm quái gì?
- Chạy sao được!- Vaxin nói- Cậu không phải đức chúa Kitô, đi bộ trên mặt nước thế quái nào được.
- Chúa Kitô can hệ gì đến đây?
- Đồ cá mòi!- Vaxin nói- Cậu thì Kitô quái gì, cậu là đồ cá mòi ghẻ! Ngồi sờ sờ trước mặt biển mà chẳng hiểu ngô khoai gì cả. Cậu chỉ là cái đồ tôm tép sông ngòi, nghêu sò ốc hến tép riu thôi.
- Cậu chửi bới gì lạ thế?
- Thôi, đi nào!

Họ xuống bến. Chỗ đó là trạm đỗ của những thuyền buồm được kéo nghếch mũi lên bờ.
- Thể dục đi bộ. – Vaxin lầu bầu- không đâu, anh bạn ạ, tôi là quán quân một môn thể thao cao thượng nhất. Tôi là vận động viên thuyền buồm…chúng ta đi…. làm như thể anh ta động đậy lưỡng chi trên mặt đất tức thị anh ta đi đấy… Nói đến “đi” phải là đi biển ấy chứ.
Và họ đi thật. Những con sóng cao phải ngập hai đầu người, nước xanh trong như thuỷ tinh, ngọn sóng ngầu bọt trắng xoá. Chúng lừng lững xô đến, cuộn cao lên, đe doạ tràn ngập con thuyền, những con thuyền mỏng manh như cái vỏ trứng vẫn nhảy nhót giữa những đợt sóng, bay lên tận ngọn và lao đi như tên bắn.

Nhờ sự chỉ dẫn của Vaxin, Buđrix nhanh chóng quen tay điều khiển. Cũng chẳng có gì rắc rối lắm trong trường hợp anh chỉ là tuỳ tòng. Họ bay là là trên ngọn sóng, đôi lúc treo cả người ở bên ngoài thuyền, gần như chụm xuống mặt nước đang réo ầm ầm. đến lúc ấy, anh mới nhìn Vaxin bằng cặp mắt khác hẳn. Sôi nổi mà vững tin, kiên quyết, một chúa tể biển cả, một thuỷ thủ cao tay, pháp thuật vô địch. Đã thế Vaxin lại còn nghịch ngợm đến liều lĩnh, như thể muốn trả miếng Buđrix vì anh đã có giây phút ngờ vực.
Nước mặn và gió lộng liên tục trào lên người họ. Trào lên, để lại một lượng muối nhất định, rồi lướt đi tiếp. Một đợt tiếp theo, lại một đợt nữa.
- Bánh hạnh nhân, bánh hạnh nhân- Vaxin lẩm bẩm- Mẹ ơi, mẹ yêu quý, con bồ câu nhỏ, dấn lên nữa nào?
Vaxin đuổi theo chiếc cano nhỏ. Tưởng chừng sẽ chẳng bao giờ đuổi kịp. Khoảng cách những nửa cây số. Nhưng Vaxin mở hết tốc lực.
- Mẹ yêu quý, gắng lên – Vaxin van vỉ chiếc thuyền đầy nước, phải tháo qua “cốcpit”- tức mở nút cái lỗ nhỏ ở đáy thuyền. Tốc độ nhanh như tia chớp khiến nước trong lòng thuyền lao ra với chị em sinh đôi của nó là sóng biển.
- Em yêu, nhanh nữa nào! Cánh chim không mỏi dấn chút nữa đi!
Và họ đã vượt lên trước chiếc canô.

Sau đó họ vun vút lao ngược lại, hò reo vang động mặt sóng. Thật đã đời!
Sau đó họ ngồi nghỉ trên bờ biển. Chiều đã muộn, cầu tàu vắng tanh. Ráng hoàng hôn tắt dần, bóng tối buông xuống sau đồi, vài đám mây thưa thớt, mỏng manh nhẹ nhàng như màn sương, ngưng lại trên các đỉnh. Vaxin lôi đâu ra nửa lit Vodka và cả một gói cua bể. Họ cùng nâng cốc chúc tụng cuộc rủa tội bằng nước mặn và nhấm nháp thịt cua bể mằn mặn ngon tuyệt. Thực thú vị khi được ngồi thảnh thơi như vậy, chân thả xuống vấy nước mát, mắt ngắm cảnh hoàng hôn.
- Kia kìa, chỗ đấy ông mình mua được bà mình- Vaxin nói, và lần này Buđrix hoàn toàn tin lời cậu ta.
Ở cái miền đất quái dị này cùng những con người kỳ quặc kia, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Cho nên chắc chắn từng có người bà như vậy, có cả cụ nội đại tá cảnh sát, cả Vera Phikner, nếu như người ta đã không nói dối trong điều hệ trọng nhất là sự nghiệp của chính mình.
Vì nghịch ngợm, Buđrix không rửa sạch muối trên người, ở ngoài bờ biển cũng như khi về khách sạn. Sáng ra ngủ dậy, anh thốt lên mọt tiếng “ồ”!: Tóc gần như trắng xoá, lông mày bạc phếch, trên da dẻ đọng lại một lớp muối dày có đến hai ly.
“ Một con sói biển đã bạc đầu trên sóng nước. Ta đi chứ, chú nhóc? Ê, đồ các mòi! Thôi được, cứ động đậy lưỡng chi đi.”

…..Trong khi đó, trời gần như tối hẳn. Trên các hạm tàu những chuỗi đèn màu đã bật sáng.
Dọc theo lan can bờ biển người đứng đầy thành hàng ba, hàng bốn, hàng năm. Thậm chí, có đôi chỗ đứng chen chúc. Đó đây vang lên tiếng cười, tiếng hát, tiếng dạo đàn ghita.
Sau lưng anh mọi người vẫn ép tới: người lách tìm bạn bè, người len vào chỗ đứng tốt hơn. Bỗng Buđrix cảm thấy có bộ ngực mềm mại của phụ nữ chạm vào lưng anh. Sau đó một bàn tay nhỏ nhắn tì vào lưng anh, và hoài công cố đẩy anh nhích ra.
- Xin lỗi anh nhé - Một giọng trong trẻo, tươi trẻ cất lên: - Họ cứ xô bừa tới như một lũ gấu ấy. - Đoạn quay sang nói với những người khác: - Cho tôi ra cái chứ!....
- Đứng yên nào! - Một giọng ồm ồm đáp lại: - Ở đây toàn các anh tốt bụng cả mà….Các anh sẽ ôm em vào lòng êm ru!...
Đám người lại lấn tới. Bàn tay nhỏ nhắn lại ấn nhẹ vào lưng.
- Không sao ra được.
- Cô chen ra làm gì cơ chứ? – Buđrix ghé ra phía sau.
- Tôi lạ gì cái trò này…chỉ định ngó qua, ai ngờ bị cuốn hút vào tận đây…

Buđrix dồn hết lực co lưng nống sang một bác lực lưỡng đứng bên sườn, giải phóng được một chỗ ngay cạnh mình.
- Này này, anh bạn trẻ, - bác trung niên càu nhàu: - Định ép mỡ đấy à?
- Cô đứng vào đây, Buđrix bảo cô gái- Cô không chen ra nổi đâu. Đứng đây, ít ra cô không bị bẹp dí. Cứ đứng đây một lát. Không lâu đâu mà.
- Cám ơn anh- Cô gái đáp..
Cô đứng vào chỗ, tì tay lên lan can. Burix liếc nhìn cô, nhưng không so thấy rõ nét mặt. Chỉ thấy gương mặt trăng trắnglờ mờ trong bóng tối nhá nhem. Ở tầm cao hơn vai anh một chút, nghĩa là dáng vóc cũng khá.
Nhưng rồi chợt mất hứng, anh không quan tâm đến cô gái nữa. Có điều thỉnh thoảng đám đông lại bắt anh phải nhớ đến cô. Ai đó cựa quậy tận đâu đâu, như các bắp tay hoặc chân anh tức khắc cảm thấy bờ vai mảnh mai hoặc mép đùi mềm mại của cô gái. Cô lập tức nhích ra. Anh thầm khen ngợi thái độ e dè của cô gái đối với sự đụng chạm giữa đám đông. Nhưng rồi lại quên khuấy ngay sự tồn tại của cô.

Một hồi lâu cả trên bờ lẫn trên mặt biển đều không thấy bật đèn. Chắc người ta chờ cho trời tối hẳn. Tuy nhiên, tối mù rồi còn gì, ráng chiều chuyển màu tro tàn từ lâu. Vừa mới đây, các đường viền chân mây còn in nét trên nền trời dát vàng pha sắc đỏ, thế mà giờ đã chỉ còn một khoảng không mờ đỏ, xen chút xíu vàng, tím dần, tím dần. Vừa mới rực đỏ đấy, mà giờ chỉ còn một màu khói đục lờ mờ; vừa mới ánh lên như dát vàng trên tượng thánh đấy, vậy mà nay chỉ còn lại một vệt sáng độc nhất, tựa như ngọn nến cô đơn trong đêm đen.
- Trông như ngọn nến trong đêm đen, - cô gái lẩm bẩm với chính mình, vô tình thốt lên.
Anh ngạc nhiên nghe cô nhắc lại đúng ý thầm kín của anh. Một cảm giác gần gũi mong manh chợt nảy sinh giữa anh và người con gái xa lạ kia.
Ánh hoàng hôn cuối cùng tắt hẳn, ngay tức khắc và ngay chỗ đó, trên mặt vịnh nhấp nháy li ti một chòm sao lờ mờ.
- Đằng kia là cái gì thế nhỉ? – Anh quay sang hỏi cô gái- Từ ban sáng, tôi đã phát hiện mấy chấm trắng ở đằng ấy. Mấy ngôi nhà à?
- Anh đứng đây từ sáng cơ à? - Giọng cô lộ vẻ mỉa mai. - Qủa là một người rỗi rãi!
- Chẳng lẽ cô chưa từng một phen bận túi bụi, chạy ngược chạy xuôi, sau đó ngồi lì một xó xỉnh náo đó mà quan sát vạn vật đổi dời ư? Vừa mới sáng đấy, giờ đã tối mù. Biển lúc trước màu ngọc aquamarin, rồi ngọc lazurit, bây giờ màu xanh đáy chai.

- Đẹp thật!, - cô gái lại thốt lên và Buđrix lại bực mình nghĩ: làm sao cô gái không quen biết này đánh giá nổi chuỗi hình dung từ rất bất ngờ của anh.
Bạn bè anh, họ hiểu. Một số người thân thiết nhất chắc hẳn có đoán ra là trong lòng anh luôn nóng bỏng khát vọng giúp cho mọi người thấy những điều chính anh thấy, khiến cả họ cũng hân hoan mừng vui, bởilẽ hưởng niềm vui và cái đẹp một mình là có tội. Tiếc rằng,, khát vọng khát vọng ấy thương xuyên vấp phải sự thiếu cảm thông. Cũng có thể tại anh không biết cách mở mắt cho mọi người, không đủ khả năng truyền đạt lại cho mọi người vẻ đẹp diệu kỳ của cái thế giới mở rộng trước mắt anh, Buđrix Xêrêvin. Anh mong muốn và chưa làm nổi.

- Chắc anh là hoạ sĩ?- Gịong hỏi vẫn pha sắc thái mỉa mai.
- Giả thử có ai đó bắt tôi ngồi cạnh chú bé năm tuổi cùng thi vẽ con bò, tôi chắc chú bé sẽ thắng.
- Anh không yêu bò à?
Anh đáp giọng bỗng trở nên khô khan:
- Chỉ yêu thôi chưa đủ. Phải có hoa tay nữa. Đa số yêu thích biển. Nhưng tôi chưa được xem của bất kỳ hoạ sĩ chuyên vẽ biển nào một bức tranh lột tả hoàn chỉnh diện mạo muôn vẻ của biển cả.
Anh im bặt.

Có lẽ cô gái cảm thấy anh nói chân thành chứ không nhằm bắy chuyện làm quen, vậy mà cô đã vội xúc phạm người khác bằng giọng mỉa mai. Im lặng hồi lâu, cô bỗng nói với một giọng khắc hẳn:
- Những đống lửa ấy là bến trung chuyển. Một cầu tàu nhỏ, vài cái kho, dăm mái nhà. Sau đó là đồi, những dãy đồi còn chưa bị gọt trơ trụi. Đi lên phía Tây bắc cái bến ấy, trên bờ biển nhan nhản hằng hà sa số những con nhím biển, chẳng hiểu tại sao.
-Trông chúng như thế nào?
-Thế mà anh bảo là yêu thích biển.
-Tôi mới đến đây lần đầu mà. Còn ở Hắc hải không thấy loài nhím ấy.
-Sóng biển xô chúng lên bãi. Toàn những bộ xương thôi. Y như cái hộp tròn con con, có lỗ. Hơi dẹt một chút và như thể được đan bằng hàng ren trắng muốt ấy.
- Cô có là hoạ sĩ không đấy? – anh trả đũa- Hay cô là nhà thơ?
Cô khẽ bật cười.
- Nhà vạn vật học. Vẻn vẹn có thế thôi ạ.
-Ồ ….hổ. Thế thì có lẽ xin cô cho biết: Trong rừng Taiga có một thứ cây, giống nhân sâm kinh khủng, bởi vì, à….ở trên giống ngưu bàng, nó là loài gì thế?
-Thân hơi như gai phải không?
-À….hả.
-Đó là Eleutherocbocus, người em họ gai góc của nhân sâm.
-Cô uyên bác ghê.

Một phút im lặng.
-Thôi nhé, coi như thanh toán xong xuôi. Thành thực xin lỗi cô, - anh nói.
-Thật không thể ngờ là có thể thù dai đến thế.
-Thì người anh em nhẵn nhụi trả thù chị em gai góc một chút thôi mà.
Họ cùng bật cười. Xung quanh đã tối hẳn. Trời trở cơn dông. Trên bầu trời, lúc phía này, khi phía kia vụt loé lên những ánh chớp câm lặng.
- Xin cô đừng im lặng nữa, - anh nói.- Ta nên trò chuyện với nhau, nếu như tình cờ đã gặp nhau. Theo cô, hiện giờ ở cái bến trung chuyển kia, người ta đang làm gì?
- Mọi người đều ra bến cảng, đứng ngồi ở đó. Chờ đợi. Người chơi phong cầm. Kẻ cắn hạt dưa. Cho đến lúc có pháo hoa.
-Pháo hoa hơi quá xa đối với họ. Lại thấp nữa, sát mặt đất, tựa như những cánh đồng rực hoa, - anh phụ hoạ lời cô gái.
Bỗng các chuỗi hoa đèn trên các hạm tàu vụt tắt. Bóng tối mịt mù bao trùm khắp không gian; chốc chốc những ánh chớp xa lạ vụt loé lên xé toạc màn đêm.
- Sắp rồi đấy, - cô gái thì thầm.
- Bỗng một tiếng nổ “ùng”. Loạt đại bác của các chiến hạm, khói, những đuôi lửa của pháo hiệu, sáng như sao băng, đỏ rực, xanh lè, muôn đốm lửa quay cuồng.

Buđrix liếc nhìn cô gái. Dưới ánh sáng vụt loé lên của các pháo hiệu, gương mặt cô gái thật lỳ lạ: khi sắc trăng rằm, khi vàng pha ánh đỏ, khi lại mờ ảo trong bóng đêm. Đẹp ư? khó mà biết được. Vừa nghiêm nghị lại vừa dịu dàng, với một nụ cười kín đáo, ẩn náu đâu tận trong lòng; đôi mắt thì to –to- to, rợp bóng tối sinh động.
Ánh chớp loé lên như đáp lời pháo hoa. Trên trời lập loè, dưới biển cũng lập loè. Pháo sáng rạch mây đen vọt lên trời, xuyên mặt nước đen ngòm lặn xuống đáy biển… Những tiếng nổ rền vang như sấm, khạc ra từ các họng súng trên chiến hạm, tiếp theo là chùm hoa rực rỡ- xanh, đỏ, tím, vàng, vút lên không trung, nổ tung thành muôn ngàn ngôi sao, ngập ngừng giây lát rồi đổ xuống như sao sa.

-Anh trông kìa, ánh đèn “Nautiluxơ”, - cô gái mói.
-Đâu?
Vừa dứt lời, anh cũng đã nhìn thấy. Một số phát pháo hiệu không kịp tắt trên không. Chúng rơi xuống nước, tiếp tục cháy sáng xanh pha sắc vàng da cam, mỗi lúc một yếu ớt hơn, chìm sâu dần xuống đáy biển. Qủa là rất giống ánh phản chiếu dưới nước của đèn pha “Nautiluxơ”.
Lát sau, tất cả đã kết thúc. Nhưng họ vẫn đứng đó và ngắm nhìn những chuỗi hoa đèn trên các chiến hạm lại bật sáng dưới các cuộn khói.
Mọi người ra về.
- Thế đấy, mọi thứ rồi đều kết thúc cả, - anh nói.
- Đúng vậy. Đói với tôi, thành phố cũng kết thúc luôn.
- Cô sắp ra đi à?
- Vâng. Ngoài vũng kia, một chiếc ca-nô đang đợi, và một tiếng đồng hồ nữa….
- Cô công tác ở một làng đâu đây?
- Sâu hơn.
- Ở một đội khảo sát chắc?
- Rừng cấm. Suốt một năm nay lang thang khắp các khu bảo tồn miền duyên hải. Công việc phải như vậy.

Anh không hỏi công việc ấy ra sao, bởi vì như thế cũng phải kể đôi điều về công việc của mình, một điều anh không ưa thích, vả lại cũng không thể làm được lúc này.
- Vậy thì hiện tại cô hạ trại nơi đâu? Chiếc ca –nô kia sẽ đưa cô về đâu?
- Về Lũng Hổ.
- Lý thú thật! Ai săn ai ở đó? Cô săn hổ hay hổ săn cô.
Cô cười.
- Hổ, ở đó hiện không còn nữa. Chúng ở mãi Xuiphun cơ. Và không được phép săn bắn chúng, anh bạn khát máu ạ. Hổ là con thú hiền lành. Bây giờ chúng sợ người hết vía, không bao giờ dám chủ động tấn công. Chúng còn lại ít lắm. Thế nhưng nơi nào có mặt hổ, thì có đốt đuốc ban ngày cũng khó tìm thấy một móng gấu. Ở xứ ta, gấu mới đích thị là phần tử phá hoại. Chúng nhiều vô kể.
- Chỗ cô có những con thú gì?
- Mèo rừng, gấu, lợn lòi….Rồi thì chồn, chồn cổ vàng, cáo gulô, sơn dương, hươu sao, hươu xạ và nhiều thú khác. Nói chung, một hội khá rôm rả.
- Thế có xa không?
- Xa đấy. Và phải đi đường biển.
- Đi thì đi, - Buđrix nói: - cô tháo nước qua côcpít đi.

Cô gái liếc nhìn anh không nói gì.
Từ trong quán “Đa- nuyp xanh” bên kia lộ ven bờ, ùa ra cả một hội đã chếnh choáng hơi men, bóng tối bỗng lập loè đom đóm thuốc là, vang lên những giọng nói quá to, những tiếng cười quá lớn.
- Tôi phải đi thôi, - Cô gái.- Chào anh.
- Có lẽ để tôi tiễn cô. Kia kìa, cả một hội những cháng trai vui tính! Những tráng sĩ chinh phục đại dương đấy. Lưng đầy hến, sống tàu bám kín sò. Họ ra khơi ở “Sừng vàng” vượt qua “Thuỷ triều” và “Bông sen”. Cuối cùng thả neo vĩnh viễn ở “Đa nuýp Xanh”.
- Thôi được, phiền anh tiễn chân tôi một đoạn đường vậy.
Họ sóng bước ngang qua đám thanh niên nọ. Có kẻ huýt sáo lên một tiếng ngạc nhiên. Họ thản nhiên đi tiếp, men theo lan can xuống bến.
- Tôi không sợ đâu,- cô gái nói. – Tôi từng phải chứng kiến nhiều điều ghê ghớm hơn kia. Rừng Taiga đâu có đùa rỡn. Nhưng ở giữa thành phố mà thế thì thật ghê tởm. Vì vậy, rất cảm ơn anh.

Cô gái có một dáng đi đẹp. Không hối hả, lúp xúp như phụ nữ thành thị. Dáng bước của cô uyển chuyển, nhịp nhàng, không vội vàng, dè xẻn sức lực và đẹp, dáng bước của một người từng phải đi nhiều, đi lâu ưa thích và biết đi. Tưởng chừng như nhẩn nha, vậy mà đến chiều tối nghoảnh lại đã hai chục cây sau lưng, nhưng không hao phí một giọt sức lực, có thể đàng hoàng trút khỏi vai chiếc ba lô nặng trịch, dựng lều, cắm trại, nấu nướng, dự trữ củi đuốc.

Anh ưa thích những phụ nữ như vậy. Dáng vóc kiêu hãnh, đẹp, đôi chân tròn lẳn khoẻ khoắn - chỗ dựa vững chắc cho thân hình cân đối.
Gương mặt cô, anh chỉ nhìn rõ khi họ lọt vào quầng sáng của đèn đường phố. Kể cũng lạ, anh hầu như không lầm khi hình dung gương mặt ấy. Kỳ lạ hơn nữa là mặc dù ánh sáng chập chờn đổi thay đã hết từ lâu, thế nhưng vẻ quyến rũ và bí ẩn của gương mặt ấy vẫn còn nguyên đó.
Đôi mắt xanh thẫm, mái tóc vàng óng. Tuy nhiên, vẻ quyến rũ của gương mặt cô không phải do vậy, không phải do đường nét mực thước, mà chính do thần sắc linh hoạt, hoá ra vốn là nét bất biến của gương mặt ấy: Sắc mặt luôn biến động, nụ cười dễ thương vụt thay thế vẻ đoan trang, cô gái bỗng nhiên nhìn cảnh vật bằng cặp mắt tò mò chân thành của trẻ thơ, hoặc ngược lại, với vẻ táo tợn của một ông nhóc con, rồi đột ngột, cô lại trở nên nhu mì và yếu đuối như một thiếu nữ. Có những khoảnh khắc một trong bấy nhiêu sắc thái dường như nhãng quên rằng nó đã đến lúc nhường chỗ, nên vẫn đọng lại trong khoé mắt hay trên làn môi, kết hợp một cách duyên dáng lạ kỳ với sắc thái đối lập.

Và cùng với vẻ mặt biến động không ngừng ấy, trong toàn thân cô, trong từng cử chỉ, trong mỗi lời nói và ánh mắt luôn sống động hân hoan một sinh lực tươi trẻ tràn trề và mạnh mẽ.
- Cô không bao giờ thấy buồn à?
- Lúc hết pháo hoa, có buồn một tẹo. Bây giờ thậm chí lại thấy vui. Sắp được đi mà. Cá xima bắt đầu đi đẻ trứng. Trèo lên đồi là nhìn thấy tiếng đoàn tàu : các đội ngư nghiệp đi đánh bắt các chim. Núi rừng sắp sửa khoác áo sặc sỡ như cả một bộ lạc muôn màu. Con nai Canada sắp cất tiếng kêu. Ồ! Tiếng nó vang xa như tù và ấy! Các con suối sắp bạc trắng cá hồi..
- Đẹp thật đấy, - hình dung cảnh vật cô tả, anh nói- Nhưng mà này, mọi người đều được phép vào cảnh tiên ấy chứ?
- Ai cũng được phép vào, nếu không bắt cá xima và không cắn xé lũ gấu.
- Tôi thì chắc sẽ không đâu.
- Anh nói thật đấy à? – cô gái ngước nhìn anh, vẻ hơi cảnh giác.
- Sao lại không? Tôi có khối thời gian.
- Thì tôi đã bảo: “Quả là một người rỗi rãi” mà.

Quả thực, ý nghĩ về khả năng thực hiện ý định đó vừa mới chợt nảy ra trong đầu anh: chẳng có gì ràng buộc anh, anh hoàn toàn tự do kí mà. Và một niềm vui bất chợt đến – vui vì có thể thực hiện được ý định. Sao lại không nhỉ? Muốn là đi luôn. Chưa chắc sẽ là liều thuốc đặc hiệu, nhưng cũng chẳng tai hại gì. Dẫu sao cũng là một cuộc đổi không khí: Rừng thẳm, hoang sơ. Anh vẫn chưa có dịp được thấy rừng hoang nguyên thuỷ. Kể ra đi ngay lúc này cũng được, nhưng có thể bị coi là thiếu khiếm tốn, thiếu tế nhị, là ve vãn. Vả lại cũng cần phải thu xếp hành trang, lấy thêm tiền.
“Mình sẽ đi. Dứt khoát sẽ đi”.

Rõ ràng, cô không mảy may tin vào lời anh.
- Nghĩ đi nhanh, thì nghĩ lại cũng nhẹn.
- Đến Lũng Hổ bằng cánh nào được nhỉ?
- Tuần, có một chuyến canô ra đó. Thường vào chủ nhật.
“Ngày kia chủ nhật”, - anh nhẩm tính.
- Cũng xuất phát từ bến tôi đi hôm nay. Sau đó còn một thôi đường dài cuốc bộ dọc theo bờ biển và xuyên rừng Taiga.
- Tháo nướcqua Côcpit, - Anh nói.- Cứ động đậy lưỡng chì dọc theo bờ và xuyên rừng Taiga.
- Tôi nói có sai đâu: anh là một người thiếu nghiêm túc- cô có ý trách.
- Tôi là một kẻ dễ dãi. Dễ bốc ấy “Hình như mình qua rồi thì phải? – hoa tiêu hỏi thuyền trưởng. – “ Rồi - rồi- rồi”, - thuyền trưởng đáp. Tôi cũng là một con sói biển cơ đấy.
- Các quyết định của anh cũng thiếu nghiêm túc. Ta đến nơi rồi đây. Ca-nô đang chuẩn bị rời bến kia.

Sự nhộn nhạo trên chiếc ca-nô đỗ dưới bến quả đang lắng dẫn xuống.
“Mình sẽ đi-Buđrix thầm nghĩ. linh cảm một điều phi thường, một điều anh đã đeo đuổi suốt đời, - nhất định sẽ đi. Biết đâu cuộc đời sẽ chả có một ý nghĩa mới?”
- Thôi được,- anh nói, - Để từ biệt xin cô cho biết quý danh.
- Có lẽ để rồi vĩnh viễn quên nó đi chăng?
- Vậy thì xin để cô “vĩnh viễn quên”: Xêvêrin Buđrix.
- Thế thì cũng xin tặng anh để tống khứ ra nghĩa địa tên họ: Gragina Acxailo.
- Xin lỗi, - anh nói: - tên họ gì mà lạ vậy?
- Tôi cũng biết là không bình thường lắm. Tuy nhiên, tên họ- đó là một chút ít ỏi còn sót lại từ những truyền thống gia đình. Với lại một vài tên gọi các dụng cụ gia đình. Cùng vài câu cửa miệng nữa.
- Không, không đâu, - anh nói.- Đấy là ở đây nghe nói lạ tai thế thôi. Ở quê tôi, tên tôi bình thường lắm. Một cái tên để mà gọi.
- Gia đình chúng tôi bị lưu đày, - cô nói. – Lâu rồi, trước cách mạng cơ. Lâu lắm rồi. Có một cuộc bạo loạn lớn. Mọi người, mọi giới đều làm loạn….anh có biết ở đâu có thành phố nhỏ tên là Milôvib không?
- Milôviđư, - anh đáp.- Đấy không phải là một thành phố. Một cái làng thôi. Vào thời gian nổ ra cái cuộc theo lời cô vừa nói, “bạo loạn” nọ cạnh làng ấy đã diễn ra một trong những trận đánh lớn nhất.
- Đấy, thế ra đó là sự thật. Vậy mà trong họ chúng tôi nhiều người cứ bảo câu chuyện cụ nội tôi kể là bịa đặt và ông cụ là một kẻ khoác lác. Hồi ấy, tôi còn nhỏ lắm; cụ thì đã chín mươi, bắt đầu nói huyên thuyên gần như lẫn cẫn rồi.
- Thử một vài từ nào- Buđrix yêu cầu- một vài từ còn lại trong đầu ấy.

Cô nhăn trán. Và sau một phút im lặng, cô cất cái giọng trẻ thơ đến dễ thương, bắt đầu nói:
- Zdziatxinhcu – uv… Đấy là nói về ông ta.... Garstse…Vera –txidkla…. Na raguli tapor napraviatx… O, tsêxtxi varn pa-npve-magnatixi.
- Đúng, đúng thế.
- Cô bạn đáng yêu ơi, - anh nói. – Cô bạn quý mến của tôi. Hai ta chung một miền quê. Cô có hiểu không, chúng ta là hai người đồng hương…. Thật không thể tưởng tượng nổi: Ví thử không có cuộc chen lấn hôm nay thì tôi sẽ không bao giờ được quen cô, mà cô thì không được biết cô xuất xứ nơi đâu, lại còn cho cụ nội mình bốc phét nữa chứ!
Sau đó khi chiếc ca-nô đã rời bến, Buđrix còn đứng hồi lâu trên bến, nhìn ra biển khơi. Mới đầu anh còn thấy hình bóng cô gái bên mạn ca-nô, sau chỉ thấy những đường nét đen xì của chiếc ca- nô, và cuối cùng chỉ còn những đốm lửa. Lát sau, chúng cũng biến nốt, chỉ còn lại biển cả

III. KHÚC CA NGẮN NGỦI VỀ NHỮNG GIẤC MƠ - SỰ BỪNG TỈNH VÀ CƠN BÃO BIỂN

Hai ngày còn lại trước chủ nhật anh sống trong sương mù. Chính anh cũng không ngờ cuộc gặp mặt tình cờ ấy lại thức tỉnh trong anh nỗi bồn chồn sung sướng, trạng thái căng thẳng như dây đàn, sự chờ đợi bồi hồi lạ kỳ. Và tâm trạng ấy, tất nhiên, không phải vì có một người con gái đang chờ anh (cô không chờ anh và cũng không thể chờ được), mà vì phía trước là đường dài, sự đổi mới, rừng hoang sơ cùng niềm hy vọng tâm hồn sẽ được nhẹ nhõm hơn.

Đến cả những cơn ác mộng đêm đêm cũng không còn đáng sợ như truớc nữa: những chuyện xảy ra giữa ban ngày cũng giống như mơ. Gìơ đây anh cảm thấy mình giống con cá trăng. Tròn vành vạnh, vụng về, nó hầu như không tự bơi được. Những luồng nước ấm của biển đưa nó trôi lênh đênh lúc dưới ánh mặt trời, khi dưới trăng sao, và nó lười nhác mơ màng tới những miền đất hoàng kim chưa từng được biết. Thỉnh thoảng nó có cảm giác nó đang bay bổng lên nhờ một ngọn gió sẽ đưa nó đến tận những miền đất ấy. Nó bèn dương cái vây lưng to tướng như cánh buồm lên trên mặt nước, đón gió lộng và ngọn núi dìu nó tới những đảo dừa, tới những núi ngầm bằng san hô ngũ sắc, đến với hạnh phúc.

Buđrix tự thú nhận thân phận anh cũng như con cá trăng: anh cũng phó mặc cho giòng trôi ấm áp mơn trớn đưa đẩy, anh cũng mơ tưởng đến những buổi chiều vàng, đến những túp lều tranh mà cửa vào dây leo đã đan kín, đến làn khói lam bốc lên trên bếp, đến một người mà anh có thể cùng ngồi ngắm ngọn lửa bập bùng.

Đại dương cuộc đời đang trôi dạt anh đến những miền đất xa lạ.
Cuộc bừng tỉnh thực tồi tệ, Chủ nhật, Buđrix nhét một balô nặng trịch, khoác lên vai, hăm hở ra bến số ba, nhưng ở đấy anh được biết ca-nô ở Lũng Hổ chưa về và sẽ không về trong ngày hôm nay, mà cũng chẳng có đường nào khác đến đó được.

Đợi cả một tuần thì quá cực hình. Anh cố tự an ủi là chẳng qua chỉ do mình đã chủ tâm làm cuộc đi xa đúng ngày hôm nay. Đời nào anh chịu thú nhận ngay cả với bản thân về lý do thực sự đã khiến anh thất vọng cay đắng!
Và lý do đó là: trong một tuần trì hoãn ấy, cô gái có thể đã chuyển đến một nơi khác.

Không, không phải cô ta là điều chủ yếu trong những khu rừng hoang sơ mà anh định đặt chân đến, thế nhưng những khu rừng hoang sơ ấy, nếu thiếu cô, sẽ mất đi nhiều thứ lắm. Linh hồn. Hương vị. niềm vui. Ánh sáng.
“Dẫu sao cũng là một người quen biết. Lại hiểu rộng. Sẽ tuyệt biết bao nếu được cùng cô lang thang trong rừng Taiga, được nghe, được nhìn. Chứ đến mà không biết người ngợm ở đó ra sao thì chán chết. Chắc đâu mình đã muốn lang thang cùng với họ? Vả lại chắc gì họ đã muốn đi cùng mình?”
Thời gian sau này, anh khó gần gũi mọi người.

Không biết nên xử sự ra sao, Buđrix đành ra cầu tàu tìm Vaxin: Biết đâu hắn chả cho mình một lời khuyên bổ ích ?
Mà sao, Vaxin có mặt ở "chuồng” (cậu ta thích gọi nhà kho cất giữ thuyền vào mùa đông như vậy ). Vaxin đang đứng cạnh tủ cá nhân, mặc bộ com-lê đen chuyên dùng cho buổi tối. Chuồng đối với cậu ta cũng là nhà.
Vaxin lướt nhìn cái cái quần vải thô màu đen trên người Buđrix, đôi giày đi biển, da cứng ngang đá, manh áo cao bồi kẻ ca-rô đỏ - đen, cái ba-lô sau lưng. Cậu ta huýt lên một tiếng sáo.

- Nữ thần lãng du đang vẫy gọi. Xêvêrin Baptơruc khăn gói lên đường đi tìm đoàn thám hiểm của Living-xtơn…”Từ cuộc viễn du trở về cố hương, một chàng quý tộc, có thể một vương tử…”
- Đừng diễn hề nữa, - Buđrix nói, giọng mệt mỏi.
- Mua ở mậu dịch quân dội à?
- À ….hả.
- Mình định mời cậu đi chơi. Ở nhà Vêrôska cứ chực nhảy. “Ổ bi thay bánh răng cưa - mọi thứ ngược đời”. Nhưng cậu sao thế?
- Sao?
Vaxin kẹp “linh-côn” vào ve áo.
- Trông cậu có vẻ như … Nào nói đi, có chuyện gì thế?
- Buđrix kể hết sự tình.
- Rõ, - Vaxin kết luận- Vêxêrin Bakhrrim đã có vinh dự bước vào vòng tình ái. “Em- người nâng niu cả biển khơi cùng đất liền bằng đôi tay mảnh khảnh”.
- Thôi mà. Mình thề là chẳng có chuyện yêu đương gì đâu. Không đi đâm thành bất nhã. Mình đã hứa rồi. Người ta sẽ cho mình là bốc phét.
- Can hệ quái gì đến mình nếu như một con bé tình cờ quen biết tặng mình danh hiệu bốc phét? - Cặp mắt xanh ngây thơ trong veo nhìn ra xa.
- Giọng Buđrix run run. Vaxin chăm chú nhìn bạn đoạn thở dài, cởi bỏ “linh-côn” ra.
- “Chúng ta chất củi lên toa tàu- trong ngày lao động thứ bảy…” Củi của ta….Tàu của ta…Tinh thần giác ngộ xã hội chủ nghĩa cao của quần chúng… Sau giờ làm việc chúng ta vẫn cống hiến sức lực cho lao động công ích. Mệt nhoài, nhưng hài lòng, họ trở về nhà. Trên đầu đoàn người, bay bổng tiếng hát ca”.
- Cậu ta bắt đầu cởi quần.
- Cậu làm gì vậy?
- Cởi hết quần áo ra. Gói những thứ giẻ rách của ông vào vải bạt. Ta bơi.
- Cậu điên à? Đài nói có thể bão đấy.
- Bão thì bùng, Vaxin đáp. - Bạn bè luôn sẵn sàng nhường chỗ trên thuyền cùng phao cấp cứu”.
- Mình không đi đâu.
- Thì mình sẽ chở cái ba-lô của cậu đến thế mạng cho cậu. Cô ta sẽ thú vị hơn là đằng khác .
- Thế còn Vêra? Mình biết hết mà...
- Cậu chẳng biết quái gì sất. Vêra, tạm dẹp sang bên. Cái chuyện nhảy với nhót ấy quan trọng gì. Này, đồ mèo đẻ, đừng có kẹo kéo cao su nữa. Chả có, chui đầu vào xoáy báo thật đấy, và ôi thôi…”tình ta non trẻ đành than khóc”.
- Họ hạ thuyền xuống nước, Vaxin giữ thuyền sát bến cho Buđrix nhảy lên. Thuyền rời bến rồi cậu ta mới nói:
- Chuyện này quan trọng hơn. – Nhưng sự nghiêm túc của Vaxin chỉ vừa đủ cho một câu ấy. - Vậy té ra tình yêu chưa tận số. “Còn nồng nàn âu yếm hơn Rômêô yêu Giulieta”. Lạ thật, không hiểu tại sao với tình hình như vậy các trường đại học của ta vẫn cung cấp được những chuyên gia hẳn hoi chứ không phải nguyên liệu cho các nghĩa địa nhỉ? em hiểu các ông anh bà chị lắm, em vốn dĩ là chắt nội đại tá cảnh sát bị lưu đày vì tình yêu mà. “Vượt qua bão tố đêm đen, nhằm thẳng ngọn lửa tình yêu”.
- Cậu là một thằng ba hoa thiên địa , - Buđrix nói.- Một thằng bẻm mép ghẻ tầm thường, có vậy thôi.

Gió thổi căng buồm. Con thuyền lao đi như mũi tên vọt khỏi giây cung.

- Nghe lệnh đây, - Vaxin nói- ông anh ấy! Đồ bạch tuộc chết trôi!
- Rõ!
- … thưa ngài.
- Ông anh cứ là phải tống cả con cá mập gai vào đít toàn bộ 125 centi gai góc của nó, mới đã đời, đồ bắp cải thối ạ….Sẽ bão mất thôi….Nếu kịp nấp vào sau đảo Rôgvondơ là phúc tổ.
- Nhưng từ đó còn…
- Em không thể đưa ông anh đi xa hơn, đồ tôm xanh ạ….Đến mức cùng chết chìm với nhau thì tình bạn của em chưa keo sơn đến thế đâu… Ngửa lưng ra.
- Rõ!
- ….Thưa ngài.
Qủa vậy có vẻ như sắp bão đến nơi.
- Em sẽ chở ông anh đến đảo Rogvôndơ, rồi quẳng lên bờ như một mẻ cá ươn. Sáng nay, thuyền trưởng tàu đánh cá cỡ nhỏ Ivan Nhepeipivoo có ghé qua mình. Một chàng Côdắc chính cống vùng Zapôrôgiơ đấy- Cặp mắt xanh gan dạ hướng về phía ráng chiều vàng rực báo hiệu nguy tai sắp tới- Công ty đánh cá “Nhepeipivô ân cocporâysân”. Cá Trêpăng ngập đến gối, tôm biển Okhôt đầy lòng thuyền. Ngày mai ông ta phải đi Lũng Hổ. Mình chợt nhớ ra và nảy ý nghĩ là ông ta cũng có thể chở đến đó cái balô đầy rác rưởi lục địa này…Còn mình sẽ ngồi chờ bão tan ở trên đảo vậy.

.... Khi họ ra khỏi vịnh, lao vào biển khởi, Buđrix mới bắt đầu thấy lo ngại. Biển cồn sóng lớp lớp, lô nhô như vẩy cá sấu. Trên mặt biển màu đá grafit ấy nổi lên xa tít dãy đảo tím sẫm như những quả mận trong lòng đĩa.
Vầng mặt trời đỏ rực lặn dần xuống mặt biển ảm đạm.
Buđrix không hiểu biết tí gì về nghệ thuật điều khiển thuyền buồm. Vậy mà giờ đây anh cũng cảm thấy có điều không bình thường và liều lĩnh trong hành động của bạn.

Vaxin cố đón bắt luồng gió ngang ngược, đi thuyền ngoằn ngoèo (kiểu “hanxơ”, như giới chuyên môn thường gọi thì phải). Đôi khi ở những bước ngoặt, con thuyền gần như chạm buồm vào ngọn sóng, khiến họ phải tức tốc nằm đè cả người lên mạn thuyền chổng ngược trên vực thẳm. Họ lao đi gần như bay! Một tốc độ điên cuồng đến như vậy, Buđrix chưa bao giờ được nếm trải.

Họ lao vào giữa xoáy nước, giữa con sóng ngầu bọt, giữa ngọn gió qưay cuồng.
Nước quật vào đáy thuyền.
- Cậu đi tốc độ tối đa đấy à?- Buđrix hỏi?
Im lặng.
- Mình lo sẽ có bão- bỗng Vaxin lên tiếng- Bão lớn.
- Vậy mà ta còn phải đi chừng ba tiếng nữa.
- Hay là quay về?
- Cũng không kịp. Với lại ….ngượng chết
- Dòng nước sát bên mạn còn hung hăng hơn ở xa. Nó lao thẳng vào hai người.
- Cám ơn người anh em.
- Gì ngài,, - Vaxin nói qua kẽ răng.
- Cảm ơn ngài.

Thực kỳ lạ khi thấy trên mặt biển nổi xung khủng khiếp ấy một bầu trời yên tĩnh, dãy đồi đất ven bờ xa xa, lững lờ mấy dải mây trắng mịn màng, trông như cái lọng bằng lông chồn bạc, như dải lụa đính vào những bức khắc gỗ cổ xưa: khiến ta thèm đề lên đó một dòng về nội dung bức tranh.
- Dấn lên thuyền ơi! Nhanh nữa lên, em yêu quý. Nào….cố lên…- Vaxin nói khẽ qua kẽ răng. – Ôi bạch tuộc và cá kình! Và thằng cha Buđrix ì ạch như hải cẩu kia!... Nếu chẳng may thuyền lật thì chớ rớt xa thuyền đấy. Cứ bám chắc lấy nó thì người ta sẽ tìm thấy. Con thuyền nó như con chim hải âu tử thương ấy mà. Chứ cái đầu một thằng người giữa biển cả thì….phù! – Không hơn bãi nước bọt. Bất quá cũng chỉ như cái phao câu thuỷ tinh trong cả tấm lưới thôi. Nghe không?

Vầng mặt trời trong ráng chiều tím ngẳt trông như một chấm bút lông. Một vệt đỏ rực. Và ánh mắt cuối cùng của nó sao mà buồn, mà hoang vu!
Buđrix không còn nhớ đã bao nhiêu tiếng đồng hồ trôi qua. Đã vài lần suýt họ bị lật thuyền. Ướt sũng và hoàn toàn mù tịt trong bóng tối và mặt biển đen ngòm, họ vẫn lao lên phía trước, định hướng theo ánh sao đêm. Và thật khủng khiếp mỗi khi chợt nghĩ đến những đám mây đen từ phía nam đang lan dần khắp bầu trời, có cơ che khuất những chòm sao.

Trên mặt biển mêng mông, cánh buồm phập tựa cánh bướm mong manh, và có lẽ hy vọng sống sót của nó cũng chẳng hơn gì phận con thiêu thân, ấy thế nhưng nó vẫn liều lĩnh giành giật sự sống với số mệnh.
…. Đến khi gió bỗng lặng đi, Buđrix vẫn chưa dám tin là họ đã thoát nạn; đã đến nơi an toàn. đảo Rôgvôndơ sừng sững như một tấm bình phong đá che gió bão cho họ.

Anh chỉ nhìn thấy đường nét lờ mờ của hòn đảo, nổi lên giữa biển như một con cá voi. Con cá voi ấy có hai mắt nhấp nháy- ấy là hai đốm lửa sát bờ biển. Trên đỉnh đầu, như thể tia nước do cá voi phun lên, lấp lánh dải Ngân hà.

IV. KHÚC CA MÀU XANH DO CON NGƯỜI LĨNH XƯỚNG,
BẦY CÁ CÙNG BẠCH TUỘC HOÀ THEO

Bão biển gào thét suốt đêm, rạng sang mới ngớt cơn điên khùng. Biển tuy vẫn còn trăn trở nặng nề, nhưng lặng dần, như thể có ai đổ dầu mỡ xuống đó. Dưới ánh sáng mờ nhạt ban mai, sóng biển quả như láng dầu mỡ.
Chiếc tàu đánh cá cỡ nhỏ MRX ra khơi trước lúc mặt trời mọc khá lâu. Một cái hộp con con với chín nhân mạng: sáu thuỷ thủ, dân chài, thợ máy, thuyền trưởng và một tuỳ tùng vô tích sự, tức thị Xêvêrin Buđrix.

Ngoài chiếc tàu đánh cá, trên mặt biển còn hai con tàu nữa. Mạn bên phải là con tàu đánh cá cùng cặp. Mạn trái lại vẫn anh chàng Vaxin tung tăng cánh buồm trăng toát tựa cánh bướm.
Vaxin Paplôp rõ ràng cố ý nô rỡn: lúc tụt lại phái sau, khi nhẹ nhàng lướt lên phía trước. Thuyền trưởng đứng trên boong càu nhàu:
- Cứ như thần biển không bằng….Cái đồ súc sinh không sừng… Trông hắn biểu diễn kìa…. Chạy đua với động cơ kia đấy… Lại chơi trò mèo vờn chuột nữa cơ chứ!
Buđrix đứng bên mạn, và lần nào vượt lên trước con tàu, Vaxin cúng hét to lên với anh:
- Này chàng hiệp sĩ khốn khổ kia! Chàng vượt muôn chùng sóng gió, qua mặt cả tử thần ! Đến với nàng công chúa ước mơ…. Chút xíu thì chàng chìm nghỉm cùng chàng tuỳ tòng thân tín….Ta mà còn bao giờ… Xin vái cả món!”Vượt mù sương chàng đi tìm bóng hồng hoang dại”…
Đùa rỡn chán, Vaxin từ biệt:
- Mình về Vlađivôxtốc đây! Cầu thượng đế phù hộ cho cậu! Đừng làm hổ danh xứ sở Bêlôruxia, nghe!
Cánh bướm trắng đã mất hút. Biển mỗi lúc một thêm xanh.
- Thế đấy,- thuyền trưởng Nhêpêipivô nói. – Gía như thuỷ thủ ai cũng được như vậy thì đời khỉ nào ta chịu lép với bọn Nhật bản.

Hôm trước Buđrix cứ tưởng sẽ gặp “trang cô-dắc” râu tóc bạc phơ thật, nên anh hơi thất vọng . Ivan Nhêpipivô té ra là một chàng thanh niên đầu trọc, dáng vóc bé nhỏ, khuôn mặt rám nắng, cặp mắt xám, gò mà khoẻ, đẹp. Không một nét thuyền trưởng cổ truyền nào trong toàn bộ thân hình anh, nếu như ngoại trừ năng khiếu chửi bới một cách hiểm hóc. Tuy nhiên giọng hài hước truyền thống của dân xứ Ukraina khiến những lời chửi rủa bớt thô tục.

Cũng lại một hậu thế của dân di cư. Một trong mấy triệu người. Trên khắp nẻo miền viễn Đông này, tại làng nọ bạn nghe có tiếng Bêlôrutxxia, ở làng kia - tiếng Ukraina, đến làng nữa- tiếng Nga hay tiếng Môđavi. Những con người bình thường.
Nhưng chỉ cần thoáng nhìn khoé miệng, nét cằm của họ cũng đủ biết: lưu lạc đến miền đất này toàn những con nguời tháo vát nhất, phiêu lưu nhất – hiểu theo nghĩa tốt đẹp của danh từ ấy.
Và những người dân Nga, Ukraina, Bêlôruxia ấy không ưa nói suông, họ đã làm sống lại miền đất bị lãng quên, “bỏ đi” này, dựng lên bao thành phố, làng mạc, nhà máy, đặt đường xe lửa, đào núi đá, khai hầm mỏ, đóng tàu thuyền đi biển…. Và vẫn bảo tồn nguyên vẹn ngôn ngữ, tập tục ông cha. Bằng hai bàn tay, họ đã xây nên quê hương mới. Họ sẽ không bao giờ xa rời quê hương mới của mình. Họ đã kết nghĩa anh em với thổ dân miền Viễn đông: người Uđê, người Nanai, người Tazơ. Họ đã cắm sâu rễ xuống đất này như những cây tuyết tùng. Họ đã và sẽ không để không để cho kẻ nào xâm phạm miền đất này.

- Khoảng chiều, ta sẽ tới Lũng Hổ,- Nhêpêipivô nói, - anh lặn lội đến đó làm gì cho nhọc xác.
- Công việc mà.
- Kỳ thật đấy, công việc ném người đời đến tận những nơi tít mù khơi. Tận xứ Bêlôrutxia đến đây.
- Biết làm sao.
Biển đã trở lại màu xanh ngắt, tuy nhiên khi thả lưới, tàu vẫn hơi chòng chành. Ở bên tàu cùng cặp, người ta đón đầu dây, giăng lưới ra, rồi hai con tàu chạy song song như thể nạo vét lòng biển.
- Tôi có thể làm gì không? – Buđrix hỏi thuyền trưởng.
- Độ một tiếng nữa, anh không phải làm gì cả. Sau đó, họ sẽ trả đầu lưới cho ta, lúc ấy thì cứ việc mà… Anh thì có lẽ sẽ phân loại cá.
- Thế họ chơi à?
- Lần thả lưới tới đến lượt họ thu cá. Lúc ấy ta sẽ quang đầu lưới cho họ. Cứ vậy, lần lượt. Thu cá xong, có thể điểm tâm chơi cờ, ngủ nữa.
- Y như ở nhà nghỉ mát ấy.
- Nếu như đây là nhà nghỉ mát thì tề tựu ở đây cả lũ bọn ăn không ngồi rồi của mọi giai cấp và mọi dân tộc, ơn nhờ trời, hôm nay biển lặng. Y như ở nhà nghỉ mát thật.
- Xêvêrin Buđrix suýt muốn độn thổ vì hổ thẹn.

Một giờ sau, tàu cùng cặp sáp mạn và quảng đầu dây sang. Các thuỷ thủ nối chặt hai đầu dây. Cái tời bắt đầu hoạt động.
Cảm thấy mình hoàn toàn thừa và vô tích sự, Buđrix đứng nhìn tấm lưới ngoằn nghèo bò đi dưới mặt nước như một con rắn. Con rắn bò lên mạn, trườn lên boong. Các thuỷ thủ kéo một đoạn lưới lên, móc nó vào nút dây chão, dùng móc giữ nút dây, thả một nấc tời, và thế là một khúc lưới nặng nề rơi xuống boong tàu. Móc của tời móc vào một nút mới và lưới lại tiếp tục bò lên.

- Kỹ thuật gần như hoang tưởng. - thuyền trưởng Nhêpêipivô nói. – Anh có biết dân Triều Tiên bắt bạch tuộc thế nào không? Phát hiện chỗ nó ẩn nấp, họ lặn xuống theo một cái dây dài. Một người chọc tức nó. Những người khác chờ. Cái giống bạch tuộc nó hiền khô. Họ lặn xuống một, hai rồi ba lần. Khốn nỗi, cái thói xấc xược của con người thì đến con bạch tuộc cũng không chịu nổi. Nó đành tấn công lại. Nó vừa mới cuốn tám cái vòng quanh một người thì những người khác lao đến tặng con bạch tuộc “những chiếc hôn của tử thần”. Họ dùng răng cắn thủng túi không khí. Các lỗ giác nhất loạt rã rời. Các vòi đều liệt. Thế là họ chỉ việc tóm nó, tên nô lệ đáng thương, và ngoi lên.
Một con bạch tuộc to tướng loay hoay thế nào lọt ra khỏi lưới và rơi xuống chân Buđrix. Nó dương hai con mắt thao láo nhìn anh, ngọ nguậy, thay đổi màu sắc, lúc thò cái mỏ vẹt ra, lúc lại thụt vào.

- Anh thử đụng mũi giày vào nó xem. Vào đầu ấy. Buđrix làm theo. Trong nháy mắt, cái vòi cuốn chặt lấy chân anh.
- Đừng có nhúc nhích.
- Chỉ vài phút sau, con bạch tuộc nhận ra là chẳng được tích sự gì mà ôm khư khư có quỷ biết được là cái của nợ gì, trong khi cần phải cứu lấy mạng sống bởi vậy nó thả cái chân ra và lại ngọ ngoậy. Buđrix xắn quần lên và trông thấy những hàng chấm đen trên chân mình.
- Hắn tranh thủ hút máu đấy, - Nhêpêipivô bật cười. Cái con quỷ này linh cảm là chiều nay chúng ta sẽ chén hắn một cách ngon lành.
- Ăn cái của nợ này à?
- Cái của nợ này ngon nhất ở biển đấy.
- Cái tời vẫn quay ầm ầm, lưới tiếp tục rơi xuống boong tàu. Trên boong tàu diễn ra một công việc nhộn nhịp, giống như trò chơi ăn thua. Từ cuống họng ai đó bật ra tiếng hát khàn khàn, ngang tàng, chếnh choáng hơi men:
Kéo nào, kéo dấn chút nữa con lời,
Kéo nào, kéo dấn chút nữa chai bò!


Những tấm lưng màu đồng thau ướt nhẫy săn lên đầy bắp thịt. Những cánh tay và bộ mặt lấp lánh những giọt nước biển. Cá trong lưới quẫy, đánh vây tanh tách, thậm chí cất tiếng hát nữa. Và con bạch tuộc cũng đập các vòi xuống sàn, ngọ nguậy, như thể cũng muốn cất tiếng tiếng hoà theo, nhưng không đủ giọng, - khốn khổ cái con bạch tuộc luôn đổi màu ngũ sắc ấy!
“Trời, - Buđrix nghĩ, - tuyệt biết bao nếu như mình có thể cho cô ta xem tất cả những cảnh này! Được đứng ở đây, trên boong này, giữa bầu trời xanh và mặt biển biếc- thực hạnh phúc biết bao! Thế giới này thật tuyệt đẹp!
Bỗng trên mặt biển xuất hiện một cái túi khổng lồ màu xanh biếc; cái túi dịch lại gần mạn tài, sóng xô ló lên lơ lửng trên mặt nước.
Một vài con cá vọt ra, rơi bộp xuống nước, nằm đờ ra vài giây rồi lặn mất tăm xuống đáy biển.

Cái túi óng ánh sắc xanh xà cừ và sắc bạc, cỡ bằng cả một gian phòng kha khá, đã lủng lẳng trên boong. trông như một chùm nho khổng lồ.
Một thuỷ thủ chạy lại giật một cái, mở nút dây buộc đáy túi và nhảy vội tránh sang bên để khỏi bị đè bẹp.
Cả một trận “mưa cá” hàng chục tấn trút xuống boong tàu: Cá mitai xanh, thờn bơn, rô biển, tiêcpue, cá thuyết, cá bống. Cá tràn đầy khắp boong, quẫy đành đạch…
Rồi họ lại giăng lưới quét lòng biển khơi. Thuyền trưởng dúi vào tay Buđrix cây gậy có đóng cái đinh khoằm ở đầu và bảo:
- Cầm lấy. Không bắt cá tay không được đâu. Móc nó vào đỉnh rồi ném. Anh trông kìa: anh em làm sẵn mấy ngăn bằng ván đấy. Ngăn kia, ném cá mintai, ngăn kia- thờn bơn, ngăn cạnh boong ba là cua.

Buđrix bắt tay vào việc. Chật vật nhất là anh thờn bơn. Nó không chịu tuột khỏi đinh. Cứ phải đập gậy vào cánh tay trái, con thờn bơn bị quán tình lôi tuột khỏi đinh móc rơi bộp vào ngăn như một chiếc bánh xèo.
Vất vả mất một lúc, nhưng rồi anh thạo dần.
Mintai- thờn bơn-tiếcpuc. Thờn bơn-bống-mintai.
Rô biển-min tai. Thế còn mày là giống cá gì đây?
Anh cứ hỏi luôn mồm. Đấy, lại một con bống kỳ lạ, bụng tròn như quả bong.
- Gíam đốc rạp xiếc đấy, - bác đầu bếp nhếch mép. Bác ta cũng đang lao động cật lực.
Dưới chân anh như có cầu vồng đang lấp lánh muôn màu. (“Gía mà cô ta được thấy nhỉ”): những con “cáo” biển mõm dài, những con “chó” biển má đỏ, những quả trứng gì đó màu tím (chẳng hiểu là động vật hay thưc vật: hễ đập gậy vào là nước phọt ra), tôm xanh….

Rồi cả những con “gà” biển, vây giống vây rô biển nhưng màu sắc sặc sỡ và rất dài. Bác đầu bếp cầm một con trên tay kể:
- Hồi bé, tôi hay lấy giấy dán chúng lại cho khô đi rồi đem treo cạnh đèn hoặc cửa sổ đẹp lắm, Tôi sẽ bảo cậu cách làm, đem về mà tặng bồ.
Mấy con sao biển quay tròn, rơi ra ngoài mạn. Cá văng đi khắp tứ tung. Buđrix làm việc hăng hái, nên anh em thuỷ thủ nhìn anh có vẻ nể hơn.
Thờn bơn biển- chó-mintai. Cua thì phải lật ngửa lên, khẽ móc đinh vào yếm.
“Trứng giống như trứng cá hồi chó loại nhỏ-à, con cái: Túm càng nó, lẳng xuống biển. Nó chìm dần, màu tối dần trong nước xanh biếc, động đậy chân càng rồi mấy hút.
Không có trứng- yếm dẹt hơn- xin mời vào ngăn. Thân phận đàn ông anh em ta là vậy cả”
Lũ nhện biển nhỏ - xúc xẻng hắt xuống biển. Các loài tép diu khác cũng vậy. Cả rong biển nữa. Lũ sò hến cũng thế. Chỉ nhặt độ hai chục con, trèo lên boong ba, đặt lên ống khói, chỗ nóng nhất, cho thịt rời ra. Tách chúng ra- thế là được cái vỏ sặc sỡ, trông giống như cái chén hay bông hoa.
Gìơ thì chân bạn cũng đã nhầy nhụa đến tận gối, vẩy cá bám đầy. Lấy vòi nước rửa boong tàu. Rồi chờ. Bây giờ đến lượt tàu bên thu cá, đến lượt họ lao động.

Buđrix túm càng một cua bể to tướng. Cái thân tròn của nó , đường kính phải năm chục phân. Chân to và dài bằng cánh tay người.
- Cua chúa đấy, - thuyền trưởng giới thiệu.
- Thò ngón tay vào càng nó thì sao nhỉ?
- Thử chào hỏi kiểu Ăng –lê á? Cứ thử xem.
Nhêpêipivô cầm một con cá mintai ươn nhét vào càng cua; nhử. Một lúc lâu, con cua như không muốn nổi khùng, sau đó đột ngột sập càng lại nghiền con cua làm đôi, ngon như kéo cắt giấy.
- Cứ thử bắt tay xem. Lực bóp- độ tám - mười atmôtphe thôi mà.
- Gớm nhỉ.
- Lại chả gớm. Ví thử vừa rồi anh chìa tay ra thì kết cục sẽ vô cùng đáng buồn. Đem vào cho đầu bếp đi. Hộ một tay.

Họ còn cào đi vét lại long biển khơi nhiều lượt nữa. Làm việc đến đau cả lưng. Phân loại xong mẻ cá, lại nằm nghỉ trên boong, nấu nướng, ăn uống, hát hò hay làn cá thờn bơn nhỏ chuẩn bị đồ nhắm bia cho mùa đông: mổ cá. vứt ruột, rắc muối rồi phơi lên thừng chão. Trông như hang trăm lá cờ bầu dục, kỳ quái.
Và trên đầu vẫn chói lọi một vầng mặt trời, lồng lộng gió bốn phương. Và bên mạn vẫn mênh mang nước biển, sóng bạc đầu…
Về chiều, ánh hoàng hôn nhuốm vàng các đỉnh đồi, Buđrix bỗng thấy bầy hải âu bay lượn là là mặt biển, lướt theo một con chim nhỏ. Những con hải âu già lông trắng muốt, và những con mới đầy niên, lông xam xám.
Chú chim nhỏ né tránh tài tình, bầy hải âu luôn vồ trượt, kêu ầm ĩ, như thể chúng bị ai cướp bóc giữa thanh thiên bạch nhật.

- Chúng săn đuổi con gì thế nhỉ?
- Một chú sơn tước đấy mà,- Nhêpêipivô đáp.
- Sơn tước đâu giữa biển này?
- Nó trú đàng mũi tàu kia kìa. Chỗ vứt cái áo bong rách ấy. Tổ nó ở dưới đấy. Có cả mấy chú chim non nữa. Đến khổ với chúng, giờ thì bay đi rồi. Con mẹ này lúc bọn mình nhổ neo cũng bay đi rồi. Thế mà chiều tà, tìm về đến tổ đấy. Một con sơn tước biển. Bọn mình ngang dọc hôm nay biết bao hải lý ? Mà sao nó lại biết được bọn ta ở đâu cơ chứ?
Bầy hải âu tức giận kêu la bởi có con chim lục địa láo xược dám ngang nhiên xâm phạm hải phận của chúng. Chúng đua nhau săn bắt con chim nhỏ, nhưng nó né được hết và cuối cùng bỗng chui tọt vào buồng lái.

Bầy hải âu thất vọng quay đầu bay đi. Con sơn tước vọt ra khỏi buồng lái, đáp xuống tổ.
….Chiều tà, tàu thả neo.
- Lũng Hổ ở đằng kia, - Nhêpêipivô nói. – Anh chả nên lên bờ hôm nay. Tối đến nơi rồi. Ăn, ngủ lại đây, trên tàu. Sáng mai, khi mặt trời lên….
- Sốt ruột lắm.
- Muốn nếm mùi rừng Taiga giữa đêm hôm sao? Từ đây đến lũng phải ba cây. Ở đó có đường xe goòng nào đó. Tám cây nữa mói đến núi. Anh trông kìa, chỗ vàng rực trên bờ biển ấy. Từ đó rẽ trái vượt qua núi. Anh có thấy cái ngón út tít đằng kia không?

Qủa vậy, xuyên qua lớp rừng cây bao bọc rặng núi, như thể chọc thủng nó, nhô lên một cái gì đó giống hệt ngón út. Cũng nhỏ xíu như vậy.
- Cái “ngón út” ấy cao hai trăm mét cơ đấy. Nó tên là Jantulaza, tức Núi Ống Khói Lò. Đứng ở đó thì sẽ thấy rừng cấm. Thế nào?
Chờ sáng mai vậy. Xa thật đấy.
- Vậy thì bọn tôi sẽ “trang điểm” cho tàu có mẽ một chút. Còn anh- đến giúp bác đầu bếp một tay. Cũng là học việc.
Học việc thú hơn lau rửa sàn tàu. Họ tống vào nồi hơn bốn con cua, thêm vài con tôm hùm nữa, mặc dù chỉ dẫn kỹ thuật cấm dùng nồi hơi vào việc nấu nướng. Sau đó bác đầu bếp làm món : cá tiêcpuc kiểu Nhêpêipivô”. Bác chặt lấy những cái đầu to tướng, ngâm một lúc trong nước biển, sau đó đặt những con cá đối đầu nhau vào một cái mâm. Rắc ớt , thêm tí nước, tí mỡ (gia vị còn lại - tuỳ người ăn!) sau đó tống cả vào lò hơi.

Một tiếng sau, tất cả, kẻ ngồi, người nằm, quay quần quanh mâm cá đặt giữa boong tàu, dùng thìa múc nước sốt nâu đặc quánh, xúc những cái đầu cá lên gặm, mút, nhổ xương qua mạn, chấm bánh vào nướắnốt. Bắp thịt cuồn cuộn, da đỏ bừng vì nắng gió. Ngon tưởng đến nuốt trôi luôn cả lưỡi.
Rồi bẻ càng cua mà gặm, mà gỡ những thớ thịt cua trắng nõn, chỉ tội phải cái luôn dè chừng kẻo rách toạc mồm đến tận mang tai.
Và vui mừng một ngày thành công, ngày mai hẳn sẽ lại tốt đẹp – chan hoà nắng ấm, gió mặn và biển khơi.
Và trên đầu họ, trên các đỉnh đồi, ráng chiều vàng đang tắt dần.
“Thật đáng tiếc là mình không thể cho Gragina ngắm cảnh này. – Buđrix lại nghĩ- Cô ta chắc phải thích thú lắm… Thiếu Grarina, dẫu sao, hạnh phúc vẫn chưa trọn vẹn”.

IV. BÀI CA
ĐƯỜNG MUÔN NẺO RỘN TIẾNG DÉP KHUA

Bờ biển vắng ngắt. Vả lại anh cũng không hề hy vọng sẽ được ai đón rước.
Chiếc tàu đánh cá rúc một hồi còi từ biệt, rời bến. Tiếng vọng ngân nga hồi lâu dội vào những vách đá, sườn đồi còn chưa bừng sáng, những cánh rừng còn chìm đắm trong sương.
Buđrix nhét đôi giày vào ba lô, xỏ chân vào đôi dép nhẹ nhõm phóng khoáng. Anh vẫy tay từ biệt con tàu, đoạn rảo bước dọc theo bờ.

Bóng tối còn lảng bảng sau các dãy đồi. Vầng mặt trời đang lấp ló đỉnh núi. Rong rêu khô nhún nhảy dưới chân bước. Sóng thuỷ chiều nhè nhẹ vỗ bờ. Những dải tảo giẹp xanh nâu, bóng như láng sơn, uể oải quét đường mòn sát mép nước, thực ra chỉ một vệt đất cát lèn cứng.

Rì rào…rì rào….rì rào…. tiếng sóng vỗ nhè nhẹ, êm như tiếng ru. Nước xanh biếc, trong vắt, nhưngc chiếc mai nhím biển trông như dệt bằng ren, những phao câu bằng thuỷ tinh…
Mặt trời mọc. Mới nhô lên thôi. Mỗi phút biển lại đổi màu: bóng rừng cây, bóng núi đổ xuống nước, rồi những tia nắng sớm lại nhảy nhót trên sóng. Biển cũng giống như con bạch tuộc, lúc xanh lơ, lúc ửng hồng, khi xanh biếc, khi lại vàng vàng- xam xám. Tuy nhiên mỗi phút trôi qua, màu xanh lại đượm hơn, sâu hơn.

Con đường mòn bắt đầu rời xa mép nước, trườn lên núi đá, đôi dép cũng đổi giọng: “chích -chắc….chích - chắc…”
Kỳ thú vô cùng khi bạn được bước đi trong một khu rừng mà mà phần lớn cây cối thuộc những loài xa la, chỉ có ký ức về những sách đã đọc qua thầm nhắc cho bạn biết đó là những giống cây gì.
“Chào anh bạn, hình như anh là cây dẻ Mãn Châu thì phải? Đấy, quả lủng lẳng kia, sờ vào là nhựa đầy tay, như dẻ Hy lạp vậy. Thế còn bạn thuộc giống gì? A…. ngũ vị tử. Nhưng mà bạn lại giống là nhân sâm, nhưng bạn không phải là nhân sâm. Chỗ này của bạn lại như ngưu bàng. Cái cô Gragita ấy bảo thế nào nhỉ? Eleutherococcus à?

Vách đá ven đường nhỏ những giọt nước mắt trong vắt. Ghé miệng vào hứng thật khoan khoái. Mấy con bọ rùa bò trên mặt đá. Đỏ, xanh, vàng. Con to, bằng cái móng tay cái. Lưng có nhiều vân, khiến ta lập tức hiểu ra người Nanai lấy đâu ra hoa văn đặc trưng cho dân tộc họ.
Bên trái, dưới bờ vực dựng đứng, sâu đến chóng cả mặt, là biển. Từ dưới mặt nước dựng ngược lên, như những chiếc bút chì khổng lồ, mấy tảng grarito, gọi là Kêkura. Sóng biển đang lặng lẽ vỗ quanh chúng. Xa tít ngoài khơi có hai chấm đen nhỏ- ấy là hai chiếc tàu đánh cá đưa anh tới đây.
Chích- chắc…chích-chắc…

Đôi dép cất tiếng ca đều đều. Trong các lũng ẩm thấp. Dương xỉ- lá lược- mục um tùm. Bụi lá lược giống như một cây loa kèn to, cao đến một mét. Bụi lá lược như ngủ gà ngủ gật dưới tiếng sóng rì rào, trong bóng râm ngàn đời của những cây dương.
Những con chim vàng anh Trung Quốc, lông màu da cam rực rỡ, bay lượn nhởn nhơ. Những con vàng anh to như bồ câu. Sự yên tĩnh nơi đây sao mà xôn xao!

Buđrix gặp may. Anh vừa bước đến đường ray khá han gỉ thì gặp chiếc xe goòng đi tới. Chiếc xe dừng lại:
- Lên đây anh bạn.
Họ cùng đi, tất cả có ba nguời. Có lẽ là mấy công nhân sửa chữa.
- Về đâu?
- Lũng Hổ.
- Nhà sinh vật à? Khốn khổ, bọn các anh là cứ lang thang đây đó suốt. Chết mệt được! Theo tôi thà quai búa còn nhẹ hơn. Lại không được mang súng nữa. Nhỡ gặp gấu thì sao?
- Cái dân sinh vật, họ biết nói tiếng nói tiếng loài vật đấy, một người khác xen vào.

Giá thổi ù ù. Cảnh vật hai bên chạy nhanh, đổi thay như đèn cù: núi đá, đồi trọc, rừng cây.
Khi chiếc xe goòng đỗ lại, một người công nhân gãi gáy nói:
- Hay là, ta không nên để anh ta đi một mình?
- Tại sao? - người lái xe goòng hỏi?
- Rừng Taiga mà.
- Vớ vẩn. Dân sinh vật, họ quen rồi. Anh ta không lạc đâu. Này anh bạn, cứ đi thẳng lối này. Ở đó có cái “ nhà than” bỏ không. Anh có la bàn không?
- Chỉ có cái kia thôi, - Buđrix chỉ mặt trời.
- Đến “nhà than”. anh ngoặt lên hướng Tây Bắc.
Chiếc xe goòng phóng đi, Buđrix đứng một lúc, rồi luồn sâu vào rừng rậm.
Bóng xanh râm mát. Bóng nắng nhảy nhót. Tiếng dép bước âm thầm.


VI. KHÚC NHẠC CHIỀU CA NGỢI TUYẾT TÙNG

Mặt trời ngả về chiều. Những bóng thân cây đen xì đổ dài lên lá xanh. Không khí tươi mát phả vào mặt, khoan khoái.
Buđrix đã lo là đi lạc đường, may sao con đường mòn đột ngột đưa anh thẳng đến chiếc cột mốc có biển đề “Biên giới”
Phấn khởi, anh rảo bước. Thỉnh thoảng dường như lại có tiếng thở dài tràn qua những ngọn tuyết tùng- ấy là dư âm của cơn phong ba vừa tan.
Các tán là tuyết tùng tối dần, xào xạc bí ẩn trên từng không cao xanh vòi vọi nhuốm ráng chiều vàng. Con đường mòn từ trên sườn núi chạy xuống thấp, len lỏi vào bóng tối âm u của lũng lớn.

Trên đỉnh đầu Buđrix sừng sững ngọn Jantukuar vàng rực ánh hoàng hôn. Từ trên sườn dãy núi, anh đang đứng, vô số những con suối, con lạch chảy băng băng xuống đáy lũng. Dãy núi xa hơn cũng đổ xuống hàng chục dòng thác bạc: xuống đến đáy lũng, tất cả những dòng nước ấy đều hoà mình vào con sông nhỏ nước chảy xiết.
“À…cái máng lợn khổng lồ ấy chính là Lũng Hổ. Cái lũng khá lớn. Dài hai dãy núi. Bên trái có lẽ đến tận rặng núi đen xì linh sam kia. Bên phải, ra đến tận bờ biển. Chu vi khoảng trăm cây số. Khá đấy. Không đâu thấy một mái nhà. Tít xa kia, một làn khói mỏng manh bốc lên, chắc là chòi gác của thợ săn. Và kia, một làn khói nữa , cách xa ngót đến hai chục cây. Thế còn xóm trung tâm đâu? Sao không thấy?

Kia rồi. Hầu như ngay dưới chân anh. Tận dưới đáy Lũng Hổ. Nép vào ven sông. Ước chừng độ chục nóc nhà con con. Chắc nhà kho và những lán gì đó nữa.
Ra thế đấy, phải đi thôi”
Buđrix bắt đầu xuống núi. Anh lập tức ngập vào bóng tối và không khí tươi mát. Thỉnh thoảng những ngọn tuyết tùng trên đỉnh đầu lại thở dài. Thỉnh thoảng thứ dây dợ gì cứ quang vào chân. Nhưng anh chẳng buồn xem xét nữa: anh mệt lắm rồi.
Anh xuống đến đáy lũng thì bóng tối đã bao phủ dãy núi bên trái, riêng mấy đỉnh của dãy bên phải vẫn còn đỏ rực dưới những tia nắng cuối cùng.
Buđrix lội qua một con sông nhỏ. Nước trong veo, một điều kỳ lạ đối với vùng duyên hải. Tuy nhiên, anh hiểu ngay ra nguyên nhân: con sông cùng toàn bộ lưu nằm gọn trong rừng. Rễ cây giữ chắn lớp đất, không để cho nước mưa xói mòn. Có lẽ lúc trời mưa có ngầu lên chốc lát, tạnh mưa: nước lại trong như giọt nước mắt.

Đằng kia, ngôi lán gì đó cạnh bờ sông. Nhà tắm. Một cái kho gì đó. Cạnh kho, có hai chiếc xe tải. Mất ngôi nhà ghép bằng gỗ nguyên cả súc. Ngôi nhà kia chắc hẳn Ban giám đốc. Trông có vẻ…bệ vệ lắm.
Khi anh bước vào đến sân, hai con chó sủa lên ầm ĩ. Vừa sủa, lại vừa vẫy đuôi. Ở cái nơi khỉ ho cò gáy này con người vô hại: nhưng… nhiệm vụ là nhiệm vụ mà! Sủa hăng hái nhất là con lông trắng như tuyết, hai con mắt dịu dàng màu hạt dẻ.
- Amur! Không được hỗn. Người nhà đấy!
Amur hình như chỉ chờ có thế: nó lập tức mừng quýnh nhảy nhót quanh Buđrix, đuôi cong tớn, lăng xăng chạy trước như muốn chỉ đường.
Người vừa mới quát gọi chó đang ngồi lau súng trên thềm. Một thanh niên tầm thước, nhưng cân đối, chắc nịch. Nước da mặt hồng xạm. Cặp mắt xanh trong vắt, xung quanh đầy nếp nhăn. Anh ta còn trẻ, nếp nhăn nhiều có lẽ vì thường xuyên phải nheo mắt vì nắng gió. Hai hàm răng tốt, đều đặn, nụ cười cởi mở. Những ngón tay thoăn thoắt, nhạy cảm, hẳn là thành thạo việc súng ống.
- Đồng chí có phải Giám đốckhông ạ?
- Chính tôi đây. Tôi có thể giúp gì đồng chí không?
- Buđrix tự giới thiệu. Trình bày lý do khiến anh phải lần mò đến đây.
- Đồng chí từ nơi xa xôi thế cơ đấy. Tôi họ Đênhixốp. Tên gọi Zakhar Irăclêvich. Vậy chứ đồng chí cần gặp ai?
- Acxailo. Tôi mới quen thôi. Nhưng cố ấy hứa sẽ giúp tìm hiểu mọi thứ ở đây.
- À….tôi biết cô ấy. Một cô gái có bản lĩnh đấy. Hình như nguời tỉnh Khabarôpxkơ thì phải.
- Đồng chí không nhớ rõ à?

Anh giám đốc mỉm cười:
- Tôi có xem giấy tờ của cô ấy . Ổn cả. Còn nhớ hết sao được. Đồng chí đừng tưởng ở đây heo hút thế, nhưng hàng trăm người qua lại đấy: Nào điểu học, kiến học, nào vạn vật học, ký sinh trùng học…
- Cái dân ký sinh trùng ấy, họ đến đây làm gì thế?
- Vùng chúng tôi đây nói chung tương đối trong sạch về mặt giun sán, nhưng cẩm tắc vô áy náy mà…Ta vào nhà đi.
- Anh ta đứng dậy - nhẹ nhàng, duyên dáng, không cần chống tay – và bước vào nhà trước. Tủ sách, đi -văng. Trên đi –văng trải một tấm da sơn dương bù xù. Quanh tường cũng treo đầy những bộ lông thú: cáo, chồn, gấu trúc. Trên tường, chỗ trên lưng đi văng, một bộ sừng và bộ lông thú nữa.
- Của nai Canada, - Đênhixốp nói. - Đồng chí thấy đấy: lông lốm đốm, trên sừng lại mọc một lớp sừng nữa. Mời ngồi.

Buđrix ngồi xuống.
- Thế này , đồng chí ạ.. Cô ấy hiện không có ở đây.
- Tim anh giật thót.
- Đi nơi khác rồi à?
- Không. Cô ấy hiện ở lều săn. Cách đây chừng hai chục cây ngược lên thượng lưu sông Hổ. Đi bắt bướm.
- Tôi cứ tưởng cô ấy chuyên về thực vật.
- Cô ấy thì bách nghệ đấy. Một cô gái rất nghiêm túc. Còn chuyện bướm- thì đó là một thú riêng. Anh chàng Laxkôpxki của chúng tôi nhờ cô ấy bắt giúp. Hai vợ chồng anh ta bắt không xuể. Thế là họ đi tay ba. Đồng chí đành ngủ đỗ lại đây vậy.

Anh ta xuống bếp. Lát sau quay lên, vai khoác ba-lô, tay xách súng.
- Chỉ sợ đồng chí sẽ trách chúng tôi không hiếu khách. Nhà tôi cùng các cháu vừa mới về tỉnh. Tôi nhõn một mình. Nhà cửa trống huếch chống hoác.
- Không sao. Tôi cứ mang theo thức ăn dự trữ.
- Thế thì ta đi, tôi đưa đồng chí đến chỗ nghỉ.
Bóng tối chạng vạng buông xuống Tai-ga, bao phủ mấy ngôi nhà. Xung quanh cỏ rậm rạp, không bị giẫm đạp.
- Tôi bố trí đồng chí ở nhà cặp vợ chồng chuyên viên điểu học của chúng tôi. Họ đi đến vùng sông Amur rồi: ở đấy đã bắt đầu mùa chim bay đi. Đồng chí sẽ một mình một nhà.
- E bất tiện.
- Không sao. Ở đây, chúng tôi sống theo chế độ công xã mà.

Suốt dọc đường đến nhà, họ không gặp một ai. Xóm nhỏ hầu như vắng lặng. Mọi người đều đã phân tán đi mỗi người một ngả theo công việc rừng rú cảu họ, hoặc đã ngủ say. Ngôi nhà của cặp vợi chồng nghiên cứu về chim cũng y hệt ngôi nhà giám đốc. Hàng rào gỗ ván, mảnh vườn con con, thềm cửa, mái lợp ván mỏng. Nhưng hàng hiên nhỏ hơn, và không có kho.
Đênhixoops bật đèn. Va đầu phải một cái lồng hình ống đan lưới thép, anh ta rủa một tiếng. Trong lồng vọng ra tiếng phun phì phì.
- Chơi oái chơi oăm. Bỏ tù một con rắn hổ nước. Tội phạm tầm cỡ quốc gia đấy.

Anh ta lôi trong lồng ra một con rắn to tướng, dài đến mét hai, mét ba. Toàn thân màu xanh lục, với những đường vằn lớn điểm những chấm to. Nửa thân trước, hai bên sườn rải rác những chấm đỏ da cam.
- Điển trai đấy chứ nhỉ? Nó nhanh nhẹn. khéo và thông minh nữa. Đồng chí thử cầm nó mà xem. Buđrix rùng mình vì ghê tởm, nhưng anh biết, nếu không cầm, anh có thể vĩnh viễn mất đi sự quý trọng của người giám đốc kỳ lạ này.
- Anh đừng bóp chặt quá. Cứ cầm thoải mái thì nó không cắn đâu.
Buđrix cầm lấy con rắn, quả nhiên chẳng có gì đáng sợ. Chỉ lành lạnh khó chịu một chút.
- Đồng chí thấy chưa ? - Đênhixốp đón con rắn.- Đẹp thật. Ngay cả dưới nước nó cũng nhanh nhẹn. Bắt được cả cá. Bây giờ bọn ta thả mày ra nhé. Sống cho thoải mái. Trú đông ở đâu thì trú. Đại xá.
- Đồng chí không sợ rắn à?
- Việc gì phải sợ chúng. Quý hồ đừng có xông bừa xông bãi. Đừng có giẫm phải nó. Đừng đi chân không. Đi đứng cẩn thận thì không một con rắn nào cắn anh sất. Khi chúng không bị săn đuổi thì ngay cả một con rắn lai Srenka cũng có thể tuỳ tiện sắp đạt cho đẹp đáng để chụp ảnh. Còn đối với những loài đầu tam giác thì hãy coi chừng. Tuy nhiên, lỗi cũng tại con người. Cứ nhè đuôi chúng mà giẵm cơ chứ. Y thằng mù. Đi rừng không biết đằng mà đi. Chỗ nào cũng xục bừa vào. Tự xưng là chúa tể thiên nhiên mà!

Anh ta vào phòng, lôi trong tủ ra vải trải giường, chăn, gối ném tất cả lên đi- văng.
- Đồng chí đi nghỉ đi. Không mở cửa sổ thì hơn, chỉ có bướm không để yên cho mà ngủ. Với lại, cũng có thể xảy ra những vụ náo động khác. Và không phải bao giờ cũng thú vị.
Anh thò tay vào ba –lô, lôi ra khúc cá hồi chó gói trong tờ báo, chiếc bánh mì đã khô cứng, miếng thịt sấy khô đen sì, hộp chứng cá đỏ và chai cô- nhắc đã uống dở.
- Sợ đồng chí cho tôi là keo kiệt. Bà xã nhà tôi đi vắng, nên đồng chí ở đây tiện nghi hơn. Sang hơn. Tôi sẽ về muộn. Lúc nào về sẽ đánh thức dồng chí. Nhẽ ra nên nhấm nháp tí chút với đồng chí, nhưng tôi còn phải đi gặp một anh bạn. E rằng cuộc hội ngộ sẽ kết thúc bi đát cho hắn.
- Cám ơn đồng chí. Nhưng chả lẽ tôi lại uống rượu một mình?
- Mất ngon thật, - Đênhixốp đồng tình, - thế thì hay là làm một ly vậy. Gọi là một chút khai vị. Sáng mai đồng chí đến văn phòng gặp tôi lấy giấy phép. Một thủ tục cần thiết ở khu vực chúng tôi. Nhân thể tôi sẽ vẽ đường cho đồng chí đến lều săn.

Anh ta nhìn đâu đó xa xăm, mỉm cười bâng quơ:
- Thế nào, cô gái hay đấy chứ nhỉ?
- Theo tôi, rất hay ấy. Nhưng tôi mới quen cô ta thôi.
- Cũng may là cô ta có thể thỉ dẫn cho đồng chí tham quan chốn rừng rú của chúng tôi. Anh chị em khác đều bận cả. Toàn những công việc khẩn trương. Biên chế lại quá ít ỏi. Phải chuẩn bị gấp rút cho mùa đông tới. Thành ra tôi không làm chọn vẹn đựơc vai trò chủ nhà, không ngồi thù tạc với đồng chí được. Vô tình mà thành ra keo kiệt.
- Đừng nói thế, đồng chí, - Buđrix vội xen vào – chính tôi làm phiền đồng chí thì có.
- Tôi đi nhé. - Đênhixốp nói – À quên, sau cửa có cần câu đấy. Mai đi, đồng chí nhớ cầm theo. Thực đơn sẽ phong phú hơn. Nhưng đừng câu cá xima. Đã có lệnh cấm. Tuy nhiên, thời gian này nó đang đẻ trứng, không ăn gì cả tức là cũng không cắn câu. Còn như man-ma tức cá hồi, thì cứ việc câu thoải mái. Những loài vô tích sự. Ăn thì ngon, nhưng đối với khu bảo tồn thì vô tích sự. Lại ăn hại trứng cá xima nữa cơ chứ…. Thôi đồng chí nghỉ nhé.
Anh ta ra. Buđrix ngượng rát mặt. Anh không nhận ra ngay tấm lòng vàng ở con người bận rộn, lo toan suốt ngày đêm và hơi kỳ quặc ấy. Buđrix cứ tưởng anh ta muốn tống khứ anh đi cho rảnh tay.

Ngoài cửa sổ, những cây tuyết tùng xào xạc. Buđrix như sực tỉnh, một niềm hân hoan tràn ngập lòng anh. Hân hoan vì lẽ ngôi nhà rộng thênh thang giữa rừng thẳm này hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của anh, dẫu chỉ một đêm.
“Cái anh chàng Đênhixốp thế mà cừ. Làm đúng những việc cần làm”.
Hàng hiên. Gian bếp, có bồn rửa tay, ghế băng, máy giặt, bàn, bếp điện, bếp lò với ba kiềng.
Lại một phòng nữa. Hầu như trống không. chỉ có mấy bộ sưu tập gì đó, mấy bộ xác thú nhồi rơm, vài thứ dụng cụ. Cuối cùng là gian kê đi- văng, các tủ sách. Giữa hai tủ là một cái bàn làm việc, một chiếc đài thu thanh. Một tấm bản đồ vùng duyên hải. Phía trên đi- văng treo một tấm thảm dệt, một cái đĩa tràn trí nếp nhà tranh vách đất và một con quạ thần tiên. Một bộ sừng hoẵng, trên đó lủng lẳng ống nhòm, máy ảnh.

Phủ trên đi –văng là hai bộ lông sói khâu liền nhau.
Cánh sửa treo bức ảnh chân dung một bà già khí cổ. Bà vạch lau sậy, âu yếm nhìn cái tổ chim đầy trứng. Môi bà dẩu ra. Mặt chằng chịt nếp nhăn đôn hậu. Có vẻ một nhà điểu học nghiệp dư. Trông không giống nhà bác học. Diện mạo trông như người Mỹ thì phải.
Trên cánh cửa khắc hình Buratinô ngộ nghĩnh. Cái mũi hếch lên, khiêu khích.
Buđrix ăn tối qua quít, rồi bước ra sân. Trên đỉnh đầu anh, bầu trời đêm thăm thảm, lạnh lẽo, lác đác những ngôi nhà xa xôi, trong vắt như băng. Chúng nhấp nháy xa vời vợi, có lẽ vì bên dưới chúng là những đỉnh núi trùng điệp.
Anh trở vào nhà. Ngả mình lên tấm vải trải giường mát lạnh, cảm giác thấy được hơi ấm toát lên từ hai bộ lông sói lót ở dưới. Anh vươn vai, bật cười sung sướng bởi linh cảm một hạnh phúc lớn lao đang đến, dẫu còn mơ hồ.
Bên kia, trong bóng đêm dày đặc, những cây tuyết tùng khẽ xào xạc.

VII. KHÚC CA BAN MAI VỀ CHÚ MÈO DẠI DỘT

Dưới đáy thung lũng mênh mông, bóng tối chạng vạng vẫn còn bao phủ, những tia nắng đầu tiên vừa mới ửng hồng trên mấy đỉnh núi cao nhất.
Nơi ấy, lá cây rừng loăn xoăn, rõ mồn một đến từng cành. Không khí ở đây trong suốt. Dưới lòng thung lũng bóng tối màu xanh vẫn còn ngự trị, nhưng đã bắt đầu nhuốm ánh hồng mờ ảo của buổi bình minh.

Buđrix mặc độc chiếc quần đùi, bước ra khỏi nhà, lững thững giẫm lên sương sớm, đi ra sông Hổ. Tiết trời lành lạnh, không phải cái lạnh trói cứng chân tay, mà là cái tiết lạnh khiến người ta thở sâu hơn, hoạt động hăng hái hơn, thấy mình trẻ khoẻ ra- cái tiết lạnh mà ai cũng muốn được cảm, được trải qua mãi mà không ớn.

Vầng mặt trời vàng rực đã nhô lên khỏi các đỉnh núi cao. Sông Hổ lấp lánh chảy qua các ghềnh đá, nước trong xanh leo lẻo, những khúc sông sâu phản ánh bầu trời cũng trong veo. Có thể nhìn rõ từng hạt cát dưới đáy nước: nước tưởng như trong suốt hơn cả không khí. Những con cá hồi manma theo tên gọi ở địa phương đây, lượn lờ qua lại, nhiều vô kể.

Một cái lưng to tròn thoáng qua dưới mặt nước. Con cá dài phải đến một mét bơi người ngược dòng lê phía thượng nguồn. Buđrix đoán chắc đó là một con cá xima đi đẻ trứng. Đường vào sông của nó bây giờ thật thuận lợi. Sau cơn bão và theo thuỷ chiều, mực nước sông lên cao.

Buđrix chọn cỗ nước anh cho là chỉ đến cổ và nhảy tùm xuống. Bất ngờ, anh bị sặc; chỗ ấy sâu đến hai mét rưỡi chứ không ít. Thế mà anh tưởng chỉ mét bảy là cùng. Nước trong vắt đã đánh lừa anh. Anh bơi ra chỗ nông, đứng hồi lâu, cảm giác rõ cái lạnh trong suốt như tinh thể băng ngấm vào lồng ngực, vào bụng. Anh cứ đứng thế mà ngắm nhìn các dãy núi dần dần nhuốm vàng, cả một thác nắng vàng tràn từ trên các đỉnh xuống lũng.

….Đồng chí giám đốc đã có mặt ở văn phòng, cũng đồng thời là phòng thí nghiệm, đặt trong ngôi nhà nhỏ hai gian.
- Sớm thế?
- Đồng chí cũng sớm thế, - Buđrix đáp lại.
- Đối với tôi thì không phải là sớm, mà là khuya.
Gương mặt anh quả có hơi ngái ngủ. Nhưng dầu sao cũng khó có thể đoán ra là anh đã thức trắng đêm. Nước da hồng xạm, nụ cười cởi mở.
- Ta đi thôi.
Họ bước vào phòng thí nghiệm. Buđrix hơi sửng sốt. Chẳng phải vì hàng lô những bộ sưu tập thảo mộc trên bàn, hàng dãy giá trong tủ với những đầu lâu, bộ xương động vật đủ cỡ, khắp quanh tường treo đầy các bộ lông thú, các bình, các ống nghiệm đủ kiểu loại chất đầy mấy bàn, theo một trật tự bí ẩn đối với anh. Vì điều khác kia.

Cô nhân viên phòng thí nghiệm đang bắc một con mèo lên cái đãi cân bình thường vẫn thấy ở cửa hang mậu dịch. Con mèo hình dáng cân đối, chân thon dài, đuôi xù và ngắn. Trên cái đầu nhỏ nhắn có hai chấm nhỏ bết máu. Cặp mắt xanh cứng đờ như thuỷ tinh, mõm nhe răng dữ tợn.

Con mèo dường như không ưng nằm gọn trên đĩa cân, không chịu nằm yên: lúc thì một chân toõng xuống, lúc thòi cái đầu ra, hoặc truội cái mông to tướng xuống. Loay hoay mãi, cô nhân viên mới đặt được nó cuộn tròn trong đĩa cân, chỉ thõng có hai chân trước.
- Nó phạm tội gì mà đồng chí khử nó thế?
Những nếp nhăn ở đuôi mắt đồng chí giám đốc hằn rõ lên.
- Thì cũng phải dạy chúng chứ…
- Con mèo trừng trừng nhìn Buđix.
- Ới chú miu, sao chú lại dại dột thế!
- Đồng chí thương à? Như thế là tốt đấy, - giám đốc nói – Hay đồng chí ở lại đây với bọn tôi nhỉ? Có việc cho đồng chí ngay. Chúng tôi rất cần những người biết thương mọi sinh vật.
- Cô nhân viên hoàn toàn lạnh lùng đặt những quả cân lên đĩa. Như thể cô đang cân một ký bột quả khô cho khách hàng, chứ không phải cân một con thú vừa bị giết.
- Nina, trước khi cân lẽ ra cô nên bắt hết lũ ve bám đầy trên tai cái tên du đãng ấy.
- Vâng, - Cô Nina đáp: - Em sẽ lấy nhíp cặp chúng ra.
- Cần những con người biết thương loài sinh vật- Buđrix nhắc lại- Thế còn đồng chí?

Giám đốc nhìn anh vẻ tò mò.
- Đôi khi chính vì thương mà phải giết đấy. Để biết mọi điều về loài thú: chúng ăn gì, thích gì, phải bảo vệ cho ai và vào lúc nào thoát khỏi nanh vuốt chúng. Chúng ta là chủ mà. Cũng có thể, chúng ta không có quyền tự nhận mình là chủ. Nhưng tạo hoá đã sắp đặt như vậy. Không ai có thể thay đổi được nữa. Cho nên chúng ta phải học làm những ông chủ thông minh. Chính vì vậy đôi khi phải tước đoạt sinh mệnh của một số con vật để tìm hiểu, để sau đó không phải tước đoạt của con mèo nữa, mà ngược lại cứu giúp từng sinh vật….Để tất cả những con còn lại đều được sống. Như vậy đó.
- -Thế những cái con vật này, chẳng còn gì có thể cứu giúp được nữa.
- Để an ủi cho đồng chí khỏi đau long, tôi xin nói để đồng chí biết là “chú miu” hiền lành này bắt giết cả những con hoẵng non, thỏ, cá.
- Vô lý!
- Tôi xin đảm bảo đúng như vậy. Bởi vậy đồng chí chả nên quá quan tâm đến lòng nhân đạo hợp lý của chúng tôi, mà nên lưu ý đến những kẻ đang đầu độc sông ngòi, hồ ao, rừng rú, và chẳng nay thì mai sẽ làm ô uế cả đại dương nữa. Chúng tôi- Tất cả cho con cháu mai sau, dẫu đôi khi bàn tay chúng tôi phải vấy máu. Bọn họ- tất cả cho đâỳ túi tiền và đầy bụng, mặc dù tay họ sạch bong….- Im lặng giây lát, anh nói tiếp: - Tôi chẳng hạn, từ nay nhiều loài vật, tôi sẽ không đời nào giết nữa. Tôi đã hiểu cặn kẽ lợi hại của mỗi loài. Cả con rắn hổ mang “ghê tởm”, tôi cũng sẽ không giết nữa. Hổ, tôi chưa hề giết một con, kể cả những khi có thể dễ dàng làm điều đó. Nhiều con vật khác tôi cũng không bao giờ giết nữa. Nhưng còn giống chồn Nêpan thì tôi tiêu diệt không một giây do dự.
- Tám kilôgram một trăm năm mươi ạ, - cô Nina tuyên bố.
- Tám kilô, tôi chả cần nhiều thế- Một trăm năm mươi gram cũng quá đủ rồi. –
Buđrix nói đùa hơi vô duyên.
Tuy thế, họ vẫn cười, khiến anh phải ngạc nhiên. Thì ra ở đây quan hệ giữa người với người được trút bỏ những ước lệ ràng buộc, ở đây người ta mừng vui mỗi khi gặp bất kỳ ai, và điều quan trọng , không phải là câu đùa đó có duyên hay không mà là bản thân ý định đùa vui không có ác ý.
- Để phòng khi đồng chí quay lại đây, - Đênhixốp nói- Có phải không Nina?
- Cũng được ạ, - Cô gái mỉm cười, và Buđix bỗng nhận ra là cô rất xinh.
Đênhixôp đưa Buđrix vào phòng Giám đốc. Ở đây cũng một dãy tủ đứng. Đênhixốp hí hoáy viết trong khi đó Buđrix ngắm nghía những củ nhân sâm ngâm trong cái lọ thủy tinh, giống củ mùi tây, củ trông như hình người.
- Giấy phép đây. “Đề nghị đồng chí thợ săn hết sức giúp đỡ người cầm giấy này trong phạm vi toàn bộ địa giới khu bảo tồn”. Cái giấy này bây giờ là quan trọng nhất đối với đồng chí. Các trạm gác rừng của chúng tôi chủ yếu đặt trên các dãy núi. Trạm số một kia. Cách hai chục cây, trạm số hai... Đênhixốp chỉ ra cửa sổ. Dãy núi xanh xanh kia là Rặng Đen. Trên ấy có ba trạm gác. Dãy bên trái này có bốn. Đồng chí có thể mượn ngựa của anh em thợ săn. Kể cả trường hợp vắng chủ. Đi từ trạm một đến trạm hai. Đổi ngựa, rồi đi tiếp đến trạm ba. Cứ như thế.
- Thế chủ ngựa, làm sao gặp được mà trả?
- Đồng chí cứ cho ngựa vào chuồng, Sớm muộn gì chủ trạm cũng phải đến trạm hai. Anh ta sẽ lấy ngựa về. Hoặc là thợ săn ở trạm hai sẽ tự dắt nó về
- Tôi đi bộ hơn.
- Không biết cưỡi ngựa à?
- Biết. Nhưng đi bộ hơn.
- Cũng đúng. Sẽ thấy được nhiều hơn. Đồng chí giỏi đấy. Tôi có thấy đồng chí đi từ trên núi xuống. Không đi văng mạng, mà bước êm như con thú. Như vậy sẽ thấy được nhiêu fhơn. Rừng tồn tại riêng cho những con người như vậy. Đồng chí từng đi săn à?
- Đôi khi.
- Thế mà than thở mãi về con mèo.
- Nó dại dột. Dẫu sao vẫn thấy thương.
- Không thế không phải là người. Có la bàn không?
- Theo tôi ở đây cần gì đến của ấy.
- Sao vậy?
- Vật chuẩn kia. Buđrix chỉ các đỉnh núi. – Dãy núi bên trái, dãy núi bên phải, dãy núi phía trước mặt. Sau lưng không có núi. Biển. Từ dãy trái sang dãy phải mười cây số. Từ biển đến dãy trước mặt – ba bốn chục cây. Lạc sao được.
- Thế sang bên kia các dãy núi?
- Hiện thời tôi không có việc gì ở đó. Ở đây cũng quá đủ thú vị rồi.

Cặp mắt Đênhịxốp long lanh.
- Này, tôi mỗi lúc một ưng đồng chí hơn đấy. Từng đi săn này, biết nhìn, biết đi đứng, lại biết suy tính, cân nhắc mọi lẽ, thương xót con vật, thắng được cả nỗi sợ hãi và sự ghê tởm đối với con rắn. Ở đây đồng chí sẽ kiếm ra tiền, ra nhà, vợ sẽ kiếm được ngay thôi. Và cái chính là rất ...rất thú vị.
- Tôi sẽ suy nghĩ, - Buđrix nói, bất ngờ với cả chính bản thân anh. – Công việc của tôi khác hẳn. Cũng rất quan trọng. Đối với tôi, có lẽ, thay đổi cuộc sống đã quá muộn. Dẫu sao tôi cũng rất mừng là mình có đủ khả năng ở lại nơi đây.
- Một câu trả lời hay. Nào, bây giờ tôi sẽ chỉ dẫn đường cho đồng chí. Bản đồ...Qủy sứ, cái bản đồ đâu rồi? Thôi được, chả cần. Đơn giản lắm. Tôi vẽ cho đồng chí. Đây nhé, sau lưng quả là biển. Khu bảo tồn gồm cái thung lũng chúng ta đây, ba dãy núi và sườn bên kia. Bên trái là dãy nước Nước Dữ, Bên phải - dãy Xanhlin hay Mangu. Đồng chí có biết tiếng Mãn Châu “xanhlintritru” là gì không? Đó là chúa sơn lâm tức con hổ. Trước mặt là rặng Đen. Hầu như toàn bộ khu bảo tồn là bình nguyên của Sông Hổ. Gần cửa sông, bên tả ngạn là trạm ta đây.

Đênhixốp vẽ theo trí nhớ, đánh dấu chỗ nọ chỗ kia.
- Từ trên dãy núi Xanlin, chỉ có hai con sông nhỏ chảy xuống Ngòi Nai, ngay dưới trạm Hưu Gìa và Ngòi Săn cạnh cái lều mà đồng chí cần đến.
- Anh ta vẽ ngôi nhà nhỏ nép sát thượng nguồn sông Hổ.
Nhưng anh sẽ đi ven bờ trái, dưới chân dãy Nước dữ . Ở đó có con đường mòn người Khunkhudơ vẫn đi. Tiếp theo là đường bưu trạm cũ. Chúng tôi vẫn sử dụng con đường ấy. Chỗ này có mấy con ngòi, suối. Khá nhiều đấy. Suối Gorxki, suối Vàng một, Lợn lòi, suối Cạn, còn gọi là suối chết. Vàng Hai.
- Sao gọi là vàng?
- Xưa, người Hoa đến ngụ cư thường đãi vàng ở đấy. Có ít thôi. Suốt vụ hè, mỗi người đãi được độ trăm gram- thế cũng đủ chán... Tiếp đến là suối Thánh giá, bởi vì nói chảy từ dưới chân núi Thánh giá. Rồi đồng chí sẽ thấy: nó cao sừng sững đen sì. Sau đó đến suối Cây đổ, suối Vực, suối Ngang. Tiếp đến là rặng Đen, có đường bưu trạm cũ, bỏ hoang phế từ lâu. Từ suối Cây đổ đến Rặng Đen là rừng rậm thực sự đấy. Dây leo chằng chịt, heo hút, hoang dã. Đồng chí đừng vào đó. Sau suối vàng thì vượt sông Hổ ngay là đến lều Săn. Dựng bên bờ suối Săn mà. Họ đang ở đó.

Trên các dãy núi, Đênhixốp đánh dấu khoanh tròn, vẽ ngọn cờ nhỏ.
- Những điểm này là trạm gác. Ở đây đồng chí có thể lấy ngựa. Đấy, tất cả có vậy. Nhưng.... nên thận trọng.
- Anh ta chăm chú nhìn Buđrix.
- Đồng chí nên ghi chép những gì quan sát thấy. Cặp mắt của một người mới – chắc nhiều điều hay.... Gì nữa nhỉ? À, có thể có một con chó nào đó có thể bám theo đồng chí, thì cứ mang theo. Nó sẽ là bạn đồn hành đáng tin cậy. Chó của chúng tôi ở đây biết là phải giúp người. Nếu nó quấy rầy quá chỉ việc bảo : “về nhà”. Chúng đã được luyện, nghe lời tức khắc.
- Cái con Amur ấy nó theo tôi làm gì cơ chứ?
- Thích rong chơi. Chả khác gì trẻ con thích đi hội chợ. Lon ton chạy trước, hếch mũi tìm hiểu vụn vặt. Thú vị kinh khủng chứ! Với lại, không muốn rời xa con người... gì nữa nhỉ? – Đênhixốp suy nghĩ giây lát, rồi bỗng mở tủ lôi ra khẩu súng trường và năm viên đạn, - Tôi vi phạm luật đấy, nhưng .....chắc đồng chí sẽ không nghịch bừa. Một con người chững chạc mà....Rất tiếc là cũng có những khi cần nổ súng để răn đe đôi ba kẻ. Có điều, xin nhớ cho: tiếng nổ trong khu vực chúng tôi là BCPT đấy, tức “biến cố bất thường”. Còn như bắn vào con thú thì....

- Tôi biết. Đồng chí cũng đã hiểu tôi. À con gì thế này?
- Báo hoa mai, - Đênhixốp trả lời, vẻ kém hòa hứng. Ở địa phương đây gọi là “barxow”
- Vùng này hiện không có à? Hay chưa hề có bao giờ?
- Bao giờ chả có. Một hoặc hai gia đình. Từ ba đến tám nhân khẩu. Chỗ quen biết cả. Người nhà. Dân hiền lành cả. Ăn thịt hoẵng, đôi khi xài cả lợn rừng, các con thú nhỏ khác. Sợ người. Không nguy hiểm. Thấy bóng người là chuồn.
- Thế thì cần gì súng?
- Vài tuần nay có chuyện bất thường. Mới xuất hiện một con nữa. Nó điên khùng thế nào ấy... Đã mấy lần vồ gia súc ở ngay cạnh trạm đây... Thường thì giống này chỉ qua lại ở thượng lưu sông Hổ, sợ hơi người như lửa. Cho nên đồng chí cũng nên cẩn thận. Ban ngày nó không dám tấn cong đâu. Đêm thì đừng đi quá xa đống lửa. Có ma quỷ biết được cái đầu ngu ngốc của nó bất chợt nảy ra trò gì. Một kẻ lạ mặt. Có lẽ ở trên núi xuống, hoặc ở Trung Quốc mò sang. Chưa từng bị răn đe, nên láo xược lắm. Cũng có thể vì đói. – Anh ta đứng dậy: - Thôi, tạm biệt anh bạn. Đi đi là vừa. Tìm được chứ?

- Được. Rất cán ơn đồng chí.
- Đồng chí bỏ quá cho là tôi không tiễn chân được. Việc ngập tận cổ, mỗi ngày chỉ được ngủ hai ba tiếng đồng hồ.
- Thì tôi còn bé bỏng gì mà phải dắt tay dẫn đi.
- Họ bắt tay nhau. Sau đó Buđrix bước ra khỏinhà, đi về phía sông Hổ. Ba-lô và súng nằng nặng trên vai khiến anh thấy khoan khoái. Mấy viên đạn trong túi lách cách đều đều theo nhịp chân.

VIII. XÔNATA- KHÚC NHẠC RỪNG

Có một thứ cỏ dại kỳ quái mọc dọc men con đường mòn heo hút ấy. Đi được vài bước là hai ống quần đã bám đầy những hạt xanh li ti. Mới đầu, cứ vài phút Buđrix lại đứng lại phủi chúng đi (chúng bám không chắc lắm). Lát sau, anh chán cái trò ấy, cứ tiếp tục đi, mặc cho chúng bám. Hai ống quần như phủ một lớp xanh lục đến tận đầu gối. Giờ, anh đã vỡ lẽ tại sao mà cái cỏ của khỉ ấy chỉ mọc ven đường. Thì chính con người tha chúng đi reo rắc khắp nẻo đường chứ ai. Anh thử xem, chúng có bám vào da không. Nhưng không, chúng chỉ bám vào đồ len dạ. Vậy là tạo hóa đã trù tính loài cỏ dại ấy cho lông thú.

Rừng Taiga văng vẳng đó đây đôi ba tiếng chim kêu buồn bã. Thời buổi ca hát đã hết rồi, mùa thu đang tới.
Lạ thật, có bao điều con người chưa hề biết đến trong một khu rừng. Chân sải bao đường đất mà chỉ nhận ra được vài loài cây: linh sam Viễn đông, trăn quả hình tim, tuyết tùng Cao ly, dẻ Mãn Châu.
Loài cây có lá vẫn nhiều hơn cả. Thật vô cùng khoan khoái được rảo bước dưới những tán lá xanh tươi mỡ màng, sạch bóng sau trận mưa bão, lao xao không dứt.
Đất lẫn vào bóng tối xanh lục, lốm đốm những bóng nắng, Trông tựa một bộ lông hươu sao.
Và suốt chặng đường, dòng sông Hổ khi rì rầm thâm trầm, lúc nhí nhảnh róc rách bên tai, hòa tiếng với muôn giọng núi rừng tai-ga.

Và anh cũng nhận ra bồ- đề, anh đào và lê dại, nhài và đinh hương, ở vùng này mọc thành những cây cao lớn. Mùa xuân, khi muôn hoa đua nở, chắc hẳn miền đất này phải đẹp đến kỳ lạ, mới tưởng tượng cảnh đó đã đủ mê!
“Có khi ở lại đây thật cũng nên. Thuyết phục cả Gragina ở lại nữa. Cùng Đênhixốp đi săn chắc tuyệt”
Anh biết rằng đó chỉ là ước mơ, là chuyện thần thoại diễn ra trong vào ba ngày, rằng anh không còn con đường nào khác. Anh yêu thích con đường ngõ cụt của anh. Miễn sao cái đầu trở lại khỏe mạnh. Miễn sao đừng tiếp diễn những cơn ác mộng đêm đêm.
Có một thứ cây kỳ lạ khiến anh ngạc nhiên nhất. Nó mọc thành từng vạt rừng con bên các bờ suối, trên hai bờ sông Hổ.

Thân cây thon thả cao vút như thân cọ, tít trên ngọn mới xòe ra một tán là um tùm rạt rào reo vui trên mặt nước loang loáng ánh nắng. Trông nó rất giống cây khuynh diệp. Thân cong như một giây đàn, nó mọc trên đá. Đúng thế, trên đá dăm và những tảng đá lớn nhẵn nhụi. Đôi khi mọc cả trên những chồng đá cao gần hai mét mà dòng Hổ tha tận đâu về chất lên thành đống.
Buđrix biết rằng trong những điều kiện như vậy không một loài cây nào mọc được. Thế mà thứ cây này vẫn mọc, chẳng hiểu hút đâu ra nhựa sống để vươn lên trời xanh tấm thân cao vút và thanh tú nhường ấy. Buđrix lấy làm lạ khi hiểu ra đó không phải khuynh diệp, mà là một loại liễu đặc biệt.

Anh vẫn còn chưa biết đó là thùy dương nguyên thủy.

Có kẻ nào vừa mới “hứ” sau lưng anh. Quay ngoặt lại, Buđrix thấy kẻ lạ mặt, lén lút rình mò sát gót anh chính là con chó Amur trắng toát, lốm đốm vàng. Nó bước lon ton, không ngước nhìn lên Buđrix, đưa cặp mắt láu lỉnh màu hạt dẻ nhìn đi nơi khác ra vẻ phớt đời.
Muốn rong chơi lắm đấy.
- Thế nào, đi với ta chứ, chú mình? Được thôi. Nhưng một điều kiện: Đến Suối Cạn ta sẽ trả chú về. Đồng ý chứ?
Amur lẳng lặng đồng tình rằng như vậy hợp lý, và vượt lên phía trước. Từ giờ là đi đường hoàng hợp pháp.

Chỉ ở những đoạn sông Hổ xói lở đường mòn, là khó đi, vì đành phải lách qua các bụi rậm. Nhưng thế mà lại hóa hay. Xung quanh cả một rừng cây gai góc thuộc họ nhân sâm – thổ dương quy hình cây. Cả lá nó cũng có gai; những cây táo, quả nhỏ li li, chỉ bằng nửa ngón út, tần bì núi, thân loang lổ những mảng trắng lớn (như thể có anh thợ làm vườn cẩu thả quét lại vài nhát vôi), những cây sơn du khổng lồ, rồi dã anh, kim ngân. Thật muôn loài, muôn màu sắc giọng điệu.

Nhìn đâu cũng một vẻ đẹp hoàn hảo của sự thanh bình lúc thu sang, cũng sức sống tràn trề.
Con Amur lông mượt mà, mắt ánh sắc vàng vẫn lon ton chạy trước, thỉnh thoảng ngoái nhìn lại: con người vẫn đó chứ? Nó lẳng lặng thừa nhận anh là chủ trong cuộc đi này.
Con người này không lén lút rình mò, không quen thân với ông chủ của nó, con người khởi hành từ trạm trụ sở - vậy việc gì phải lo ngại? suy nghĩ hẳn đã chín lắm nên Amur bắt đầu
Buđrix bước thận trọng theo cách của người đi săn.

Ấy chính vì thận trọng mà chút xíu nữa thì anh dẫm bẹp một chú sóc con vàng như trái cam. Hẳn chú sóc quá mải miết tích trữ lương thảo cho mùa đông tới nên mới không phát hiện ra kẻ khổng lồ. Đến khi phát hiện ra, chú rít lên thất thanh "chít chít chit", nhảy vọt đi ngay dưới chân Buđrix, lủi sau một gốc cây hốt hoảng "trực thăng" tót tận ngọn (hẳn chú nhỏ cho rằng kẻ thù đã bủa vây tứ phía). Vắt vẻo trên cành cao, chú mới hoàn hồn vừa phủi chân phủi cẳng vừa liến láu chửi rủa. Chú ca cẩm rằng quỷ sui ma khiến cái lũ lang thang vô công rồi nghề, làm cho "người ta" đang bận công mắc việc bị một phen hết vía.

- Cứ chửi cha hắn lên, chú nhỏ ạ.- Buđrix nói nhỏ.
Quả nhiên chú sóc càng lồng lồng lộn. Trên cái lưng vàng rực của chú hằn năm vệt đỏ sẫm.
Buđrix đã đi xa mà chú sóc vẫn còn chửi bới om sòm. Anh lần lượt qua các suối và thấy mỗi dòng hát một giọng. Các bài ca của suối rừng, trăm làn điệu mê ly. Những con xítta xam xám kêu "vit - vit- vit", lao đầu chạy ngược xuống theo thân cây. Chúng bạo dạn như gia cầm, chẳn hề quan tâm đến sự có mặt của người và chó.

Có lẽ chúng bạo dạn vì khắp xung quanh là cả một biển nắng ấm, rừng reo vui: bên trái dăng dăng những đỉnh núi xanh nghi ngút khói cuộn, bên phải triền mien núi xanh lá mạ rực rỡ dưới nắng, trước mặt trùng điệp núi xanh lam.
Đến gần suối Lợn lòi bắt đầu cảnh thần tiên thực sự. Linh lam và tuyết tùng cao lớn xuất hiện mỗi lúc một nhiều hơn. Con suối chảy trong một lũng sâu kiểu lũng Canhion, dường như đổ xuống theo bậc thang thành hàng chục cái thác ; long lanh như pha lê. Mỗi bậc như một bồn nước vuông vức, trong đó nước sủi bọt trong vắt như sâm –banh. Nước sôi sục bên một thành bồn, bên thành kia nước lắng trong veo tràn tiếp xuống bồn dưới.

Con Amur chóp chép nhấp giọng trong các bồn nước ấy, mỗi bồn nhấp đúng một ngụm. Rõ ràng nó không khát, nhưng không đành lòng bỏ qua. Thỉnh thoảng nó còn thò hai chân trước xuống bồn, nằm ẹp bụng cố đớp lấy những tia nước bắn lên tung toé.
Qua bên kia con suối Cạn, rừng bắt đầu đưa hương khăn khẳn. Một hương vị mát lành, nhưng gắt mùi men.
- Thu sang rồi – Buđrix thốt lên, buồn lâng lâng.
Vô số những hốc, những nhà chòi xinh xắn bên trên con đường mòn cũng nhắc nhở anh nghĩ đến thu sang. Chúng đều được đánh số hẳn hoi, như nhà ngoài thành phố, nhưng giờ đều bỏ không cả.

“Xuân tới chắc nhộn nhịp đông vui phải biết. Đại lộ trung tâm mà, toàn những nhà sang trọng cả. Từ các cửa sẽ ló ra những cái đầu, ríu rít tán róc hay cãi cọ với các cô hàng xóm….Gìơ đây là lúc thu sang….Hoang vắng quá…”
Sau suối Cạn (nó quả là con suối Chết, lòng ngổn ngang đá tảng, chỉ còn một dòng nước nhỏ xíu luồn lách dưới các đá tảng, nhưng vào mùa lũ chắc hẳn phải hung dữ khủng khiếp), lần đầu tiên một cảm giác khó chịu mơ hồ nhói lên trong lòng Buđrix

…..Trên một cây linh sam chót vót, xa đường mòn một chút và ở dưới thấp hơn (đoạn đường này leo lên một sườn dốc), đen sì cả một đàn chim mỏ nhọn hoắt trông giống quạ. Có lẽ đến ngót trăm con. Chúng xù lông nháo nhác vẻ như chờ đợi căng thẳng.
Buđrix hét lên đuổi chúng, cốt xua tan sự im lặng nặng nề rờn rợn. Chúng bay lên thành cả một đám mây những chiếc thập ác đen ngòm, kêu ầm ĩ, tiếng kêu chói tai, nghe như “côốc – cô ốc” hay “cờ gô cờ gô”.

Bay môt quãng, cả bầy lại đáp xuống. Đó là loài quạ mỏ dài Nhật Bản, nhưng Buđrix chưa biết điều ấy. Anh thấy rờn rợn vì một linh cảm mơ hồ. Chỉ một thoáng thôi. Bởi xung quanh, ngày quá ư đẹp trời, quá ư dịu ngọt. Có lẽ anh đã quên khuấy ngay cái linh cảm khó chịu, nếu như con Amur không đột ngột phóng ra khỏi rừng rậm. Con chó bỗng trở nên ngoan ngoãn như một cậu bé gia giáo, đĩnh đạc bước đi sát bên chân,
- Chú mày tưởng ta quên rồi hả? – Con người hỏi con chó. - Vậy chứ ai đã hứa với ông chủ là sẽ không để cho các chàng trai dòng giống Laika đi quá suối Cạn. Hả?

Amur ngước đôi mắt long lanh ánh vàng, nhìn anh van lơn, đuôi vẫy tít.
- Không, như vậy không xong đâu, chú mày ạ. Thế ngộ nhỡ ông chủ cần đến chú mày thì sao? Ngộ nhỡ ở đây lũ quạ kia mổ chết chú mày thì sao ? Ta sẽ ăn nói ra sao với ông chủ mày ? Về nhà thôi Amur, Đi đi, Amur.
Con chó thất thểu bỏ đi, chân cẳng líu ríu, trông thảm hại như phải ăn đòn.
- Về nhà !
Con chó vụt biến nmất. Nhưng con người chưa đi được hai chục bước thì con chó lại bỗng đâu xuất hiện. cắm cổ lao đến nép bên chân con người.
- Lại vòi vĩnh hả ?
- Mớ lông dày trên cổ chó lại dựng ngược lên, tấm thân trắng toát và mượt run lên bần bật, chả hiểu vì tức giận hay hãi hùng. Hàm răng trắng nhởn nhe ra gầm gừ.
- Chú mày làm sao thế? – Buđrix đưa mắt theo hướng nhìn của con chó. Không hiểu có phải anh tưởng tượng ra hay không, nhưng hình như dưới một bụi rậm tối um vụt thoáng qua một bóng đen dài.

Hồi trống số mệnh ác nghiệt đã vang lên.
Con người không thể nhìn thấy gì, không thể biết rõ. Nhưng con người có linh tính. Một hợp âm u ám đầu tiên đột ngột xen vào khúc Xkeczô màu xanh tươi vui của rừng Tai –Ga.

IX. KHÚC NHẠC BUỒN TRONG LỀU SĂN

Rừng đổi cảnh. Hương sắc nhiệt đới nổi lên rõ hơn thì phải. Những bụi dương xỉ cao to, gần như hình cây, từng mảng dây nho leo, ngũ vị tử với từng chùm quả đỏ chan chat, những bụi thổ dưỡng quy Mãn Châu gai to đùng. Lá nho đã lác đác đỏ từ những cành dẻ Mãn Châu, sồi, bạch dương, trút xuống từng dòng lá đỏ ối như máu.

Thế mà bỗng dưng, một nét lo âu len lỏi vào khúc nhạc hội mùa tưng bừng. Dẫu không rõ nguyên cớ. Buđrix bước đi thận trọng hơn, súng lăm lăm trong tay. Con chó cũng dò dẫm từng bước (anh không muốn đuổi nó về một mình nữa). Cả hai đều thở phào khi trông thấy ở bờ bên kia dòng sông Hổ, ẩn trong cành lá um tùm, bóng dáng bằng gỗ nguyên cả súc của ngôi lều nhỏ. Có lẽ Buđrix sẽ chẳng phát hiện nổi nếu như Amur không lập tức quay ngoắt về hướng đó. Ngôi lều ẩn kỹ giữa cây cối rậm rạp, có đi sát ngay bên cạnh chưa chắc đã nhìn ra. Một bóng người ngồi xổm cạnh dòng nước, hí hoáy rửa đánh cái xoong cháy đen. Nghe động, bóng người ngửng đầu lên.

- Buđrix bỗng thấy chân tay gò bó khi anh nhận ra đó chính là Gragina, trông lạ lùng trong bộ quần gin mài đen, áo sơ – mi bằng vải Scốtlen, đầu qưàng khăn xanh để lộ ra mấy món tóc vàng óng. Nhưng cái chính là trông cô lạ lùng trong ánh nắng vàng rực rỡ. Bởi vì anh chỉ quen hình dung gương mặt cô gái trong bóng chiều chạng vạng. Gương mặt ấy, anh thấy có một lần, vào lúc hoàng hôn xuống.
- Anh đấy à ?
Thoáng một giây, trong khoé mắt hình như vụt loé lên một ánh nhìn mừng rỡ. Rồi tắt ngấm. Anh không dám chắc có ánh mắt ấy, hay anh chỉ tưởng tượng. Đôi mắt ngắm nhìn anh, như thể làm quen lại. Trên làn môi nghiêm khắc ngưng đọng đẫm nét một nụ cười thầm kín.
- Vậy là anh vẫn đến. Tôi cứ nghĩ…
- Vậy là cô có nghĩ…
- Chứ sao! Bao giờ tôi chả nghĩ. Nhưng đây…
- Tôi vẫn giữ lời hứa. Lỗi là do cái ca – nô của cô, nó không đến.
Vẫn vẻ mặt bí ẩn luôn biến động.
- Bão mà…
- Trong cơn bão ấy, tôi đi thuyền buồm đến Nôgvôndơ. Từ đó ngồi tàu đánh cá, rồi cuốc bộ, vượt qua núi.
- Thật anh hùng. – Không hiểu cô khen hay giễu. - Dắt theo cả chó…Lại mang súng nữa…Đủ lệ bộ. Anh rời Taraxkôn lâu chưa?
- Phù – phù –phù. Cô hỏi thế mà không nhịu mồm à?
- Thôi, anh đừng tự ái. Rất cừ là anh đã tìm được đến nơi. Rất tốt là anh đã xuất hiện. Khen thế đủ chưa?
- Cô đưa khuỷu tay cho anh, bởi vì hai bàn tay đen nhẻm nhọ nồi. Bất ngờ với cả chính mình, anh bỗng thèm được hôn cái khuỷu tay ấy. Tuy nhiên, anh chỉ cầm lấy thôi. Hình như cô đoán ra. Trong khoé mắt hình như xuất hiện vẻ giễu cợt và khiêu khích.
- Tôi không ngờ anh vượt nổi chặng đường như vậy đấy.
- Chắc cô cho tôi thuộc loại ngồi văn phòng.
- Văn phòng xộp ấy chứ. Ta về đi. Chờ tôi rửa cái tay đã.

Một sức sống tươi trẻ, rắn rỏi bộc lộ trong mỗi cử chỉ của cô gái. Buđrix thoáng nghĩ rằng cái quyến rũ anh lặn lội đến đây không chỉ có trí tò mò.
Tường lều xếp bằng gỗ súc, mái lợp gỗ ván. Cái cửa sổ duy nhất, ô cửa thường thấy ở mỗi nếp nhà nông thôn- cắt luôn vào gỗ súc. Một ống khói bằng sắt. Mái lèn mấy thân cây để bão khỏi tốc: tiếp giáp mái nhà là một cái mái che chỗ chứa củi đun. Làm bằng vỏ cây hoàng bá Amur. Môt loài cây gỗ nút. Nó mềm mại uốn cong gần sát đất.

Cạnh lều đặt một chiếc ghế dài. Trên ghế để xô nước, xoong, thùng. Rõ ràng những thứ đó dành sẵn cho bất lỳ ai có việc phải qua lại nơi đây. Quanh đấy đặt mấy phiến gỗ lớn - ghế ngồi . Một vuông đất trống, xếp đá ngăn xung quanh, dành cho việc đốt đống lửa. Một cây dẻ Mãn Châu, cành lá um tùm che rợp mái nhà.
“Mùa đông mà được rúc vào đây nhỉ? Dự trữ đủ lương thực, nến thắp. Ngồi giữa rừng tuyết phủ dày mà đốt đống lửa. Làm việc, suy nghĩ, đi trượt tuyết. Và luôn luôn bên cạnh có người mình yêu. Ngoài ra không một mống bè bạn nào khác…., kể cả “sếp”.

Tuy nhiên, bây giờ cũng tuyệt diệu. Cạnh tường là một bụi dương xỉ khổng lồ chan hoà ánh nắng, trên mái, cả một đám mây xanh rờn, tức thị tán lá cây dẻ Mãn Châu. Vươn cao hơn nữa là những thân linh sam, tuyết tùng, thân màu sẫm, hương thơm thoang thoảng. Cao hơn cả là những đỉnh núi.
Có hai người lạ mặt, ăn mắc kiểu đi rừng, ngồi trên hai phiến gỗ. Một người đàn ông ngộ nghĩnh, đầu hơi hói, tuổi chạc bốn mươi, và một phụ nữ với vẻ đẹp khiêm nhường, dễ thương, trẻ hơn nhiều.

- Ô hô, Tachiana! - Người đàn ông thốt lên, ngạc nhiên. – Em trông kìa, Graginna của chúng ta tóm được một tên người rừng dẫn về kìa..
- Có mà gấu hiểu nổi ai áp tải ai.
Người đàn ông đang lấy những con bướm trong dầu ngâm tẩm ra phơi. Anh ta vuốt cánh bướm cho phẳng phiu, mà hầu như không cần nhìn, vì động tác đã thuần thục. Người đàn ông đứng dậy đón Buđrix.
- Tôi là Xôkrat. Họ Laxcôpxki. Còn đây là một phần tư của tôi.
- So với anh chồng cao lớn như tráng sĩ thì Tachiana quả là nhỏ xíu. Cô thon thả, mảnh mai, tưởng chừng anh chồng có thể nhấc cô lên lòng bàn tay.
Họ làm quen với nhau.
- Chàng Buđrix Xêvêrrin lòng dạ đầy thuốc nổ, - Xôkrat nói- Lại có súng nữa. Đôi tay dũng mạnh sặc mùi cỏ cây lẫn mùi thuốc súng. Giờ thì tôi không còn phải lo ngại gì cho cô bé của chúng ta nữa.
- Ô kìa, chú Xôkrat- Gragina thốt lên- chú không biết xấu hổ à?
- Thế nào? Lại phải lo ngại hơn à?- Xôkrat làm ra vẻ kinh ngạc.
- Chẳng việc gì phải lo. – Gragina đáp - Giọng bỗng lạnh lùng hẳn.
- Này ngài Xôkrát bướm kia ơi, - Tachiana xen vào- Thôi những câu đùa tế nhị như gấu ấy đi. Nhà hiền triết trùng tên với ngài nói đùa có duyên hơn nhiều.

Tôi đâu dám sánh. Tôi là cái gì cơ chứ! Tôi chỉ được cái tốt bụng thôi.
- Tất nhiên , - Tachiana kết thúc rất giản dị.
Rõ ràng mới thoáng nhìn chị đã nắm bắt ngay được điều lạ lùng giữ đôi bạn trẻ: sự gò bó, ngượng nghịu của họ, thậm chí bản thân họ chưa hiểu hết những điều đang đến với họ. Họ chưa hiểu đối tượng cũng chưa rõ chính mình.
- Ngồi xuống đây, anh Buđrix. – Gragina nói. – Bây giờ chúng ta sẽ uống cà – phê. Sau đó anh sẽ đi bắt bướm cùng chú Xôkrát, “ nhởn nhơ bay nhảy trên thảm cỏ”.

Giọng cô có vẻ lãnh đạm, pha chút giễu cợt. Một lần nữa Buđrix lại phải ngạc nhiên về tính khí thất thường của cô gái xinh xắn và duyên dáng ấy. Anh không hề chờ đợi một sự đón tiếp khác, tuy nhiên những điều đang diễn ra khiến anh ngạc nhiên khó chịu.
- Bướm lý thú chứ?- anh hỏi cộc lốc.
- Lý thú kinh ! – Xôcrát đáp. – phong phú vô cùng. Thậm chí có cả hai loài thuộc hệ động vật Anhđô- Malaixia. Có mà quỷ biết được chúng lạc loài đến đây bằng cách nào.
- Anh lại sắp đọc cả một khóa trình cho Buđrix nghe đấy. Tachiana nói. – Đối với anh ấy, không cần phải dài dòng văn tự, cứ chỉ cho thấy là đủ. Anh biết cây hoàng bá Amur chứ? Nó kia kìa.
- Cái cây có tán lá như tấm khăn thêu trổ thủng đứng cách đó không xa. Vỏ thân nó dẫu mới thoáng nhìn cũng thấy quả là mềm mại như gấm, về phía gốc nhăn nheo, lên phía ngọn hình như phẳng phiu hơn.
- Anh thấy đấy, có biết bao thứ kỳ diệu có thể bắt được trên cái cây ấy.
Những con bướm to phải bằng bàn tay xòe ra, khoảng hai chục phân. Màu xanh da trời, kỳ diệu thực sự - con người có lẽ không bao giờ tạo ra được thứ tương tự.
Thuộc bộ bướm cánh Vâymác. – Tachiana giải thích. Kia nữa. Bộ Cơxút. Còn kia ở địa phương đây gọi là Malakhôn xanh lam. Lam đâu mà lam. Madakhôn đen thì có. Xanh đen thì đúng hơn.
Kỳ diệu thật đấy ! – Buđrix nói với Gragina.
Có lẽ không còn gì tuyệt hơn là đi bắt chúng vào bao diêm. – Tachinana nói, giọng không hiểu sao rất dè dặt.

Buđrix bắt gặp ánh mắt chị trao đổi với chồng và bất giác nghĩ rằng đôi lứa ấy luôn ấm cúng giữa chốn hoang vu này, có lẽ họ không đời nào đánh đổi phận lang thang lấy bất kỳ thứ gì khác. Một cảm giác buồn man mác xâm chiếm lòng anh.

....Họ không biết nói gì với nhau. Sự gò bó mỗi lúc một trở nên khó khắc phục hơn.
- Cặp mắt mới mẻ của anh đã phát hiện được những gì lạ ? – Gragina hỏi.
- Con Amur chẳng hiểu sao có vẻ thảng thốt. Với lại cái giống chim gì nhỉ... trông như quạ ấy.... Cả một đàn đậu đen ngọn cây.
- Qụa mỏ dài Nhật Bản đấy. – Cô đứng dậy. – Trời ! Sao anh thiếu thận trọng, vô tâm thế! Thật có mắt như mù.
- Ơ kìa, cô bé. Tachina can ngăn. – Chưa gì đã cáu nào. Anh ấy biết làm sao được ?
- Có chuyện gì thế ? – Buđrix hỏi.
- Vấn đề là, - Xôcrat giải thích, - quanh đó có kẻ đang hấp hối... hoặc là bị giết. Lũ quạ chờ đợi đến lượt chúng.
- Người à?
- Không chắc .... nhưng ai biết được?
Buđrix đứng dậy, bỏ ba-lô xuống.

Đáng lẽ tôi phải đoán ngay ra mới đúng. Xin lỗi các bạn. Tôi phải đến đó.
Anh lên đạn. Anh thấy hình như Tachiana nói gì với Gragina. Giọng có vẻ trách móc. Anh không quan tâm. Anh bực với cô gái, nhưng bực với chính mình nhiều hơn. Ma sui quỷ khiến anh lặn lội mò đến đây làm gì cơ chứ! Có quỷ sứ biết được họ đang nghĩ về anh ra sao. Cả cô ta nữa, mà có gì là lạ ! Lẽo đẽo bám gót, đồ ngu dần! Làm sao mà biết được người ta sẽ đánh giá hành động của anh ra sao ?! Liệu họ có tin vào ý đồ trong sạch của anh hay không?
Anh vừa đi vừa nguyền rủa mình. Bỗng anh thấy Amur đứng lại nhìn ra phía sau lưng.

.... Gragina đang đuổi theo anh. Dáng đi của cô nhịp nhạng, điềm tĩnh, và rất đẹp. Vừa đi cô vừa lắp viên đạn vào nòng, đóng cơ bẩm lại rồi khoác súng lên vai.
- Cô đi làm gì? – Buđrix hỏi.
- Anh bỏ quá cho, tôi thật không phải...
- Cô có thể ở lại đó. Cô sẽ chẳng giúp được gì nhiều đâu.
- Anh giận đấy à?
- Tôi giận thân thì có.
- Chả nên thế... Tôi không bực vì anh đã đến đây đâu. Ngược lại ấy... Nhưng nói ra trước mặt họ không tiện.
- Thà cô cứ nói thẳng ra trước mặt họ, sau muốn nói với tôi thế nào cũng được, còn hơn bảo tôi đần.
- Tôi....có muốn nói thế đâu. Khóe mắt dịu lại vẻ trìu mến, ngoan ngoãn và ăn năn hối lỗi.
- Và cô làm như vậy để làm gì? Cô cứ hiền lành có phải hợp với cô hơn không nào. Bỗng nhiên dữ tợn như mèo rừng. Cỡ tám ký –lô một trăm năm mươi....
- Gragina bật cười liếc nhìn anh.
- Thôi mà, anh trai đáng yêu, hiền lành, khỏe cằn nhằn... tha lỗi cho em gái đi. Chả có nó đến chết vì lương tâm cắn rứt mất.
- Phụ nữ các cô khôn lắm. Thật đấy.

Buđrix nhớ kỹ vị trí đã làm anh phải cảnh giác.
- Chỗ này đây. Nhưng không thấy lũ quạ đâu cả.
- Tức là chúng đã chờ được đến lượt rồi. – Gragina nói thì thào.
- Họ luồn sâu vào bụi rậm. Bỗng đàn quạ bay vụt lên qua bụi rậm và lùm cây, quang quác ầm ĩ như thể kêu gọi tử thần, cánh dang ra đen cả một mảng trời.
- Đây -anh nói.
Những loại linh sam và tuyết tùng bị đạp rạp xuống một vệt như có ai bị kéo lết qua. Một đống gì đó nằm giữa bụi rậm. Cái đống ấy lốm đốm, bất động, không rõ đâu là đầu, đâu là đuôi. Buđrix lạnh toát người khi chợt hiểu ra tại sao anh không phân biệt nổi đầu đuôi.

Con hoẵng bị giết không còn đầu.
- Anh Buđrix. – Gragina lại thì thào. – Súng sẵn sàng nhé.
- Tai sao?
- Cái giống này nó thường nằm nghỉ cạnh con mồi bị giết.
- Giống gì?
- Báo – cô đáp.
- Vậy là hợp âm u ám thứ hai đã vang lên ở vùng này. Nếu là sói đỏ thì hươu nâu đã bỏ lũng đi hết... Hơn nũa, cái đầu hoẵng. Giống báo, dù no, vẫn cứ gặm đứt đầu con mồi.. Như thể nó sợ nhìn vào mắt nạn nhân.
- Dù no nó vẫn giết những con vật khác à?
- Đúng thế. Đấy, nó đã có cả một đống thịt tươi, thế mà vẫn định vồ Amur. Trong loài vật cũng có những.... tên sát nhân chuyên nghiệp, giết để mà giết thế thôi.

Gragina đi quanh chỗ xảy ra sự cố. Cô cố ý không nhìn về phía con vật không đầu trông thật ghê rợn.
- Lũ quạ chưa kịp làm hỏng thịt. Có lẽ con báo mới bỏ đi. Đây nữa....lý do tại sao tôi bảo là báo. Trên chỗ đất ẩm có dấu chân nó. Đây nữa...lại đây nữa....
Khoảng cách giữa hai chỗ dấu chân ít nhất cũng sáu tám mét.
- Nó nhảy từ trên xuống và vồ con mồi ở bước nhảy thứ năm. Bốn muơi mét, - cô nhẩm tính.
- Sao lại nhảy xuống ?
- Vì nó là con báo. Nếu con mồi đã kịp chạy, báo không bao giờ đuổi kịp. Nó vờ vĩnh đuổi dăm chục mét rồi bỏ đi rình con mồi khác...Nó nhảy từ chỗ này đây.
- Bên trên vệt dấu chân có một cành sồi to tướng chia ra. Gragina dướn chân, bám hai tay vào cành sồi, khéo léo và mềm mại đu toàn thân, vắt chân trèo lên ngồi vắt vẻo trên cành.
- Đấy, tôi đã bảo mà. Còn dính mấy cái lông trắng ở đây.
- Báo mà lông trắng à?
- Lông vàng, màu sắt gỉ ở sườn và lưng. Nhưng nó có phải là con người đâu mà nằm ườn lưng ra. Bụng nó thì lông trắng.

Cô nhảy xuống đất.
- Anh cố thử ước lượng bằng mắt kích thước và trọng lượng con hoẵng. Kinh đấy, nhưng anh cố thử xem.
Buđrix gắng hết sức túm cẳng nhấc con hoẵng cụt đầu lên một chút. Máu dồn lên mặt anh.
- Độ mươi pút.- anh nói, bỏ con vật xuống.- Cũng có thể hơn một chút đấy.- Đoạn ước lượng bằng mắt: - Dài khoảng mét bảy, cao... có quỷ biết được nó cao bao nhiêu....Mét tư à ? ....Tạm cho là như vậy.
- Anh khỏe ghê, - Gragina nhận xét.
- Con báo khỏe hơn, - anh cau có pha trò. – Tôi chịu không tài nào đuổi kịp và cắn chết con hoẵng to đùng thế này. Có đánh chết chũng chịu.
- Ta lấy cành cây giấu nó lại, - cô gái nói, - để lũ quạ không làm hỏng thịt.
Sau đó phải báo cáo cho cánh thợ săn: Đi thôi. Tôi chịu rồi đấy. Anh thấy không : Nó không ngờ cái chết lại ập đến. Nó đang gặm cỏ... Con hoẵng đẹp thế! Con ác thú kia nằm dài trên cành, đầu ép xuống chân, rình mồi. Cái tên “sát nhân” ấy biết là nằm như vậy, hắn khó bị phát hiện. Hình như tôi sắp buồn nôn....
Buđrix đỡ cô gái, dìu ra khỏi chỗ khủng khiếp ấy.

- Một túp lều tranh.... – cô gái nói – Một khúc nhạc buồn du dương. A nh chả thích nhạc buồn du dương nữa thôi ! Luật rừng đâu có du dương!
Cạnh lều săn, không còn ai cả
- Họ biến đi đâu nhỉ ? Gragina hỏi bâng quơ. – Đi bắt bướm à ?
- Có phải giấy họ để kia không?
Trên cánh cửa, một mẩu giấy trắng cài gai thổ dương quy.
- “Rất hay là cô không lủi thủi một mình nữa, - Gragina lẩm nhẩm đọc.- Từ nay chúng ta có thể sục sạo một vùng rộng lớn hơn. Hai đứa mình đi rừng dây leo, đến thượng nguồn sông Hổ. Bọn mình mang theo đủ một bộ đồ đạc. Bộ nữa, để lại cho hai bạn. Chăn túi để trên gác xép, gương phản chiếu và ắc quy trong buồng. Nhớ giùm là bọn mình có để trong các bụi bốn ống bơ cho lũ bợm rượu có cánh của chúng ta....”
- Lại còn lũ bợm rượu nào nữa thế ? ....
- À, bướm đêm ấy mà, - Gragina nói, giọng bỗng dưng hơi cáu kỉnh. – Mấy cái vỏ đồ hộp đựng mật lên men. Cắm một lô sợi như kiểu bấc dèn. Bướm bu đến hút mật, say lử cả lũ. Cứ việc ra nhặt về,,,,- Cô lại lẩm nhẩm đọc tiếp: - “Nhân thể, bọn tôi sẽ báo cho thợ săn đến xem: Thôi nhé! Đừng có lười lao động nghĩa vụ cho chú Xôkrát đấy. Hôn Gragina.”
- Bây giờ họ ở mãi đâu ?
- Sau rừng dây leo cơ: Cách đây dăm cây. – ánh mắt Gragina bực bội thực sự. – Tệ hết chỗ nói ! Bỏ người ta lại, đi không chào không hỏi trước: Được việc mình là mừng rơn... Công việc sẽ chạy nhanh hơn mà. Lúc nào cũng chỉ thấy công việc. Quan trọng nhất mà !!! Người khác có sụt xuống lòng đất cũng mặc, miễn còn để lại mấy con bướm quý là được. Tôi thì tôi kệ xác, nằm khoèo đọc “Nữ hoàng Macgô” cho sướng đời.
- Kìa, sao lại thế ? Buđrix nói. – Họ suy tính có lý đấy chứ. Cô bắt ở đây, họ bắt ở đó, như vậy sẽ được nhiều hơn. Tôi sẽ giúp cô một tay. Chả việc gì phải bực mình.- Anh nói rành rẽ nghiêm túc.

Gragina liếc nhìn anh, nói bình tĩnh hơn.
- Đến khổ với anh ! Có lẽ, anh nói đúng. Anh lấy cần câu và cút ra sông Hổ đi. Kiếm cho được thức ăn cho bộ lạc này. Tôi dọn dẹp một chút rồi sẽ ra trợ giúp một tay. Giun đào ở dưới đống rác ấy.
.....Thật thú vị: đứng trên bờ sông, móc giun vào lưỡi, thả xuống những vùng nước sâu. Thật thú vị : dõi theo đàn cá lớn, xuất hiện đột ngột, bơi ngược lên nguồn, vút đi dưới làn nước trong veo như giọt nước mắt. Trong mỗi đàn có thể nhận ra các con đực. Chúng diện áo mùa cưới: Lưng sẫm lại hơi cong lên, sườn hằn những vệt tím sẫm, miệng bè ra dữ tợn.
Cá cắn câu nhiều. Hầu như không lần nào thả câu mà vô tích sự. Đến lúc Gragina ra sông, trong xô đã quẫy ngót ngét ba chục con, ngồi xổm xuống xem xét.
- Manma đây, - cô nói. – Cá hồi địa phương này. Anh trông này, đẹp nhỉ.
Con cá hội vẩy màu hoa tử đinh hương xanh dịu, có một vệt đỏ tươi dưới bụng, vây và đuôi cũng đỏ, lưng lốm đốm vàng.
- Thế con này cá gì ?
Con cá ấy có sọc hồng hai bên sườn, vây và đuôi cũng đỏ, khắp mình lốm đốm đỏ, trông như con báo.
- Xima, - Gragina đáp.

Buđrix phát hoảng thực sự.
- Thôi chết ! Này cô bé, bắt nó thả ngay xuống nước.
- Sao lại thả? Đây là một giống xima đặc biệt. Ở địa phương đây gọi nó là “Pêtơruska”. Chẳng hiểu do nguyên nhân gì, một số con xima đực, sau khi nở, không xuôi dòng ra biển. Kia, xima thực thụ đang bơi kia cơ. Nó dài chừng tám chục phân....Còn con này sống ở sông, vĩnh viễn là “thằng lùn”. Anh thấy không, nó chưa được hai chục phân. Một số con xima “Petơruska” này cũng có “sữa”, nhưng nếu chúng có bám theo con xima cái thực thụ, thì chẳng phải để duy trì nòi giống. Chúng rình mò theo chờ ăn trứng. Giết hại chính giống nòi mình, đểu thế đấy! Cho nên anh cứ việc câu chúng.

Trời ngả về chiều. Núi rừng xung quanh nhuốm ánh vàng êm ả. Thiên nhiên đẹp lộng lẫy. Nước chảy róc rách. Những con cá hồi đực lững lờ ngủ đứng, mình sẫm lại như bạc cũ. Cô gái ngồi lặng lẽ cùng con chó Amur, ngắm nhìn dòng nước trôi.
Dáng cô giản dị, dễ thương, hòa nhập bào cảnh vật xung quanh. Cô như ráng chiều vàng, những tán lá xanh tươi, như không khí trong lành, mà ta không nhận thấy, nhưng thiếu – không thể sống được.
- Từ lâu, tôi muốn hỏi cô một điều: cái giống cây dương gì mọc trên đá ấy nhỉ ? Kia kìa, thon thả như cây khuynh diệp ấy,
- Thùy dương nguyên thủy, - cô đáp – Một trong những loài cây mà tôi yêu thích nhất. Nó là một loại di tích còn sót lại từ thời kỳ tiền băng hà.
Giọng cô đượm một chút âm sắc lạ, khiến anh chú ý.
- Sao lại là “một loài yêu thích nhất” ?
- Vì cuộc đời nó vất vả. Kiếp nó ngắn ngủi. Chỉ độ tám chục năm. Nó bắt rễ trên những sườn đá cuội, đá tầng. Ở nơi không một loài khác mọc nổi. Xuất hiện đầu tiên ở những vùng bồi tích mới, thậm chí ngay trên nham thạch hóa đá bên bờ suối. Một loài cây tiên phong. Nó mọc lên, phá hủy lớp nham thạch, hút nhựa chả biết ở tận đâu, lá rụng xuống làm giàu thêm chất đất. Sau đó, khi nó đã đổ gục đem cả thân mình bón cho đất, thì trên mảnh đất ấy, các loài khác mới đến sinh sống được. Một loài cây nhân hậu.
“Thùy dươngnguyên thủy”, - anh thầm nghĩ, trìu mến và thoáng bâng khuâng, chẳng hiểu vì sao.

Sông trôi. Bóng chiều. Tĩnh mịch. Bóng người con gái giữa bụi thùy dương nguyên thủy ven sông. Thanh mảnh, thon thả như thùy dương nguyên thủy.
- Thật dễ chịu thư thái trong lòng. – Anh bỗng thốt lên
- Anh ít khi được thư thái trong lòng à?
- Rất ít khi. Ở đây, tôi cảm thấy thư thái, dễ chịu như chưa từng một lần được thấy trong đời. Yên tĩnh. Vắng lặng, Như thể cả thế gian này, cả con người chưa được sinh ra. Như thể hàng nghìn nghìn năm trước Hiroxima. Như thể sẽ không bao giờ có tai họa ấy.
- Thế còn tôi?
- Cô đâu phải con người . Cô là gốc thùy dương nguyên thủy đầu tiên. Một cây thùy dương nguyên thủy cao vút. Thanh mảnh. Giúp ích cho muôn loài. Cho muôn loài, tức thị cho cả tôi.
Cô gái ngước đôi mắt rực rỡ chiếu ánh vàng chăm chú nhìn anh.
- Anh Buđrix này. Tôi biết anh từ lâu, lâu lắm rồi. Sau những lời anh vừa nói, tôi tưởng như đã quen anh từ thủa mới lọt lòng mẹ. Nhưng anh là ai? Anh là ai hở Buđrix ? Và cớ sao anh buồn khổ ? Có phải anh buồn khổ vì anh chính là anh không ? Anh là ai vậy ?
- Tôi đấy ư ? – anh đáp lại. – Một cái máy tính. Cũng có thể, hơn cái máy tính một chút. Mọi người bảo thế. Cô bỏ quá cho, nếu như thay cho câu trả lời thẳng, tôi kể một câu chuyện ngụ ngôn nhé ?
- Anh cứ kể.
- Khoảng đầu thế kỷ này, tại một thành phố lớn ở Bêlôruxia, có một cuộc triển lãm. Triển lãm kinh tế. Đủ thứ thành tựu. Đồng thời nó cũng là hội chợ. Những tảng mỡ lợn xếp ngập xẻng, to rộng bằng một phần tư tôi chứ không ít....
- Kinh nhỉ. – cô gái thốt lên.
- .....rồi, thóc lúa, ngựa giống, xích cả bốn chân như bị đóng đinh câu rút, đứng gậm hàm thiếc. Thế rồi có một người đến triểm lãm- ông nội tôi. Ông cụ là một thợ mộc trứ danh thời ấy. Đóng hòm tủ, bàn ghế, xe bò.... ônng cụ xọc luôn vào chỗ Ban giám đốc. Trong túi mấy hòn than, nách kẹp một cái bảng con gỗ thông. “ Có chuyện gì thế anh kia?” – Ban giám đốc hỏi. Ông cụ trịnh trọng đáp : “Tôi đến triển lãm. Nhưng hết chỗ rồi”. “Anh mang hàng gì đến vậy?” – “Đây! – Nói đoạn đặt bảng, lấy hòn than ra. Các bác trông đây.” X-x-xoạt ! – và một nét, xong một vòng tròn. Chấm một điểm đen – tâm. Mọi người đem compa ra kiểm...Lạy chúa tôi ! Hình tròn chính xác trăm phần trăm. Tâm – không chê vào đâu được. Ông cụ cứ thế biểu diễn suốt. Góc bất kỳ, chia đúng làm đôi, hình bất kỳ, khoanh tròn được tất. Toàn bộ hình học, ông cụ uớc lượng bằng đo mắt cả, dẫu không có chút khái niệm gì về hình học.

Anh lặng im giây lát.
- Tôi cũng có cái tội bất hạnh gia truyền ấy. Tôi cũng vậy. Nơi nào compa chịu, nơi nào không có nó, là người ta gọi tôi đến, và tôi lập tức cho họ một hình tròn không chê trách vào đâu được.
- Có lẽ tôi hiểu ra rồi.
Cô gái hiểu ra thực. Cứ nhìn mặt cô, anh đủ rõ.
- Tôi thì tôi chịu. Không tài nào vẽ nổi. Anh thấy đấy, quanh đây, cả một thế giới, ánh nắng chan hòa, vẻ đẹp muôn màu. Chim bay, thú chạy, thùy dương nguyên thủy mọc.Có cả báo dữ lang thang lẩn quất, nhưng vẫn không làm hỏng bức tranh toàn cảnh. Bởi đây chính là ngày hội muôn loài, là tiệc vui của chúng sinh. Cả sinh lẫn tử đều nằm trong luật đời. Cái chết tự nhiên. không do ai bày đặt trước. Tạo ra thứ đã tiền định- phỏng có gì kinh khủng hơn ? ! Chỗ anh không ớn lạnh ư ?
- Lạnh lắm.
- Tôi hiểu. Anh mạnh kinh khủng. Và cũng hoàn toàn yếu đuối bất lực. Vì trơ trọi, không được che chở. Khôn giáp trụ giữa trần gian. Giết anh chẳng khó gì. Hay là anh đã bị giết rồi chăng ?
- À ... cô khí cường điệu rồi đấy.
- Anh đừng đùa. Không nên. Rõ ràng là anh bị lạnh. Cũng như thể giữa một đêm trăng vằng vặc có con người chết cóng dần trên đỉnh Enbruxơ. Thiên nhiên xung quanh vẫn tuyệt vời. Vẫn vòi vọi, cao xa, đủ cho toàn nhân loại.
- Chính thế đấy. - Anh đáp cau có. – Chính là đủ cho toàn nhân loại.
- Không, ở trên đó thì tôi chịu. Dẫu có đi cùng nhưngc con người ưu tú nhất trên hành tinh. Tôi yêu mặt đất, yêu những bình nguyên, những ngọn núi như thế kia, không cao vòi vọi, nơi không thể sống nổi. Việc của anh thật kinh khủng !

Buđrix hiểu rằng cô gái là một con người hác hẳn, khác hoàn toàn, tuyệt đối so với anh, chính bởi lẽ đó mà họ hiểu nhau một cách chật vật, hầu như không thể hiểu nhau, nhưng dẫu sao anh vẫn thấy phật lòng cho sự nghiệp của anh, và hơn nữa – cho chính bản thân anh.

X. DẠ KHÚC VÀ BÀI CA MỘT SỚM MAI HỒNG

Anh nằm cạnh đống lửa và không ngủ. Dưới lưng cỏ khô, đắp trên chân – một tấm chăn chiên, gối dưới đầu – chiếc áo khoác gấp lại.
Ngay cạnh là con Amur, cái đầu trán dô đặt lên hai chân trước trắng toát. Lông mày nó khẽ rung động, vì giấc ngủ ngon lành.
“Chú mày thanh thản thế - Buđrix thì thầm. – Ta thì khổ sở vô cùng”.
Câu chuyện với Gragina đã xáo động tâm can anh nhiều hơn là anh thoạt tưởng.
Lần đầu tiên anh vấp phải sự phủ định hoàn toàn tất cả những gì là lẽ sống của anh từ trước đến nay.
Đặc biệt cái giọng khăng khăng ấy, cái vẻ xa lạ ấy. Và điều cay đắng hơn cả là anh đã phải nghe những lời lẽ ấy chính từ miệng Gragina. Chính cô đã nói những lời nói ấy. Vậy mà anh e ngại điều đó hơn cả.

“ Cơ sự anh tồi tệ vô cùng, chàng Buđrix ạ. Hai người quá ư khác nhau, quá ư cách biệt. Cuộc sống của anh quả như băng tuyết trên đỉnh non vòi vọi. Vậy mà nàng từng trải thuở băng hà, nỗi chờ đợi cái chết của mọi sự sống. Nàng đã biết quá rõ thế nào là băng giá...Lá hình lông chim, trong suốt, nàng vươn cao hứng ánh nắng. .. Thùy dương nguyên thủy. Người đàn bà đầu tiên. Băng hà vừa trút đi nàng đã đến bén rễ trên đống đá, nơi chưa một ai có thể sống được. Và trụ lại từ thuở ấy, và sẽ còn đứng vững mãi mãi nơi đầu đẳng của cuộc đời. Và rồi hiến dâng sinh mệnh ngắn ngủi của mình để dải bờ cằn cỗi trở thành đất sống cho những kẻ khác.
Người đàn bà đầu tiên. Lại từng biết rõ thế nào là băng giá. Nàng sẽ không bao giờ tha thứ. Không đời nào cam chịu”.

.....Những con bướm đêm, to như những cánh chim, bay lượn trên đống lửa. Trên không trung trong suốt, trên các đỉnh núi, đứng lặng ngàn cao.
Anh biết người đàn bà ấy hiện ở đây, ngay sát cạnh, đang ngủ trong gian lều bỏ hoang kia. Nhưng có thể nàng cũng không ngủ, bởi câu chuyện bên bờ sông cũng náo động lòng nàng. Chính vì có câu chuyện đó mà nay nàng càng cách vời hơn cả những vì sao xa xôi lạnh lẽo kia. Nàng là sức sống. Bởi vậy sẽ không bao giờ có thể tin cẩn anh. Anh và nàng là hai mặt của sự sống. Của sự sống ư? Nói chung là hai thái cực của mọi sự tồn tại trên đời..
Cảm thấy điều đó, anh cay đắng khôn cùng.

Đêm. Tiếng nhạc đêm du dương. Dòng sông vỗ sóng đôi bờ ngái ngủ. Cái gối dưới má cũng bằng rong tảo. Nhưng cây thùy dương nguyên thủy cúi đầu lắng nghe chuyện mơ của muôn loài. Rễ nhân sâm ngủ giữa rừng sâu thẳm, giấc ngủ cảnh tỉnh chập chờn: Bạn Genus yên ngủ tận lòng đất đen, Những người chết ngủ dưới huyệt mộ, những người sống ngủ trên giường nệm và cạnh các đống lửa. Và tất cả - tất cả đều lắng nghe tiếng nhạc đêm: người – với niềm hy vọng, kẻ - với nỗi tuyệt vọng. Số này – cam chịu yên phận, số khác – sẵn sàng cắn xé để giành lấy sự sống.

Trong cơn mơ màng, qua mi mắt lim dim anh bỗng thấy Amur lẳng lạng ngồi dậy, thân căng thẳng. Lông trên gáy dựng ngược lên như bờm, các bắp thịt căng thẳng, mõm nhe răng nanh ra. Hàm răng nhe ra lặng lẽ ấy còn ghê rợn hơn tiếng gầm gừ, tiếng sủa.
Buđrix ngồi dậy.
Đống lửa đang tàn. Điều đầu tiên con người trông thấy trong bóng đêm, ngoài vùng ánh lửa đỏ chập chờn – cái ốc đảo đang tàn lụi trong bóng tối mịt mù, ấy là hai đốm lửa xanh lè lạnh lùng. Hai đốm lửa băng giá, không nhấp nháy, trừng trừng bất động.
Con người và con thú nhìn thẳng vào mắt nhau. Lát sau, con người đứng dậy. Tức khắc, từ trong đêm tối, từ nơi sáng quắc hai đốm lửa xanh lè, tàn ác, vọng tới một tiếng khục khặc khàn khàn trong cuống họng.
Có tiếng gì như tiếng làu ngàu tức giận trong đêm tối mịt mù, có tiếng gì rền vang như tiếng sấm xa, bỗng chốc chuyển sang tiếng gù êm ái nhưng đầy những phản trắc bất ngờ, bỗng chốc tụt xuống đến hai quãng tám, thành tiếng gầm gừ. Và trên toàn thế gian không còn tiếng nào nguyên thủy hơn, khủng khiếp hơn, quyền uy hơn.

Con người tiến một bước, rồi hai, rồi ba. Tiến thẳng vào đêm đen. Tay không. Tiếng gầm gừ hình như nhảy lùi vào bóng đêm. Nhảy lùi bước nữa. Lại bước nữa.
- Mày, con báo Mãn Châu kia, - con người nói. – Mày, con báo barxơ, con lêôparđơ, hay gì gì đó nữa. Con mèo ghẻ ư? Ra đây xem nào !
Hình như tiếng người đã buộc con báo nhảy lùi lại nữa. Tiếng gầm gừ chuyển thành tiếng khò khè tắc nghẹn như thể có kẻ đang hấp hối trong đêm.
Buđrix tiến một bước nữa. Anh tức điên lên. Tức giận con quái vật rình vồ con chó, và biết đâu rình vồ chính anh. Tức giận đêm tối, tức giận người đàn bà kia đã sổ toẹt cả cuộc đời anh, dẫu rằng xuất phát từ những lời lẽ của chân lý tối cao.

Giờ đây, tiếng khò khè lởn vởn quanh đống lửa. Theo một đường tròn vô hình. Con thú lượn vòng mỗi lúc một xa. Rõ ràng có vẻ không hài lòng, rõ ràng có vẻ bị xúc phạm chí mạng đến lòng kiêu hãnh.
Và con người biết rằng con thú sẽ không bao giờ tha thứ cho anh sự thất bại của nó.
Anh ném thêm cành khô vào đống lửa. Ngọn lửa bùng lên nhảy nhót đỏ rực trên những thân tuyết tùng, trên những thân cành trắng trắng của những cây dẻ khổng lồ, trên hai cánh cửa lều mở tung, trên gương mặt người đàn bà đứng sững giữa ô cửa.

- Anh điên à? – Giọng cô đứt quãng. – Thế súng? Súng đâu ?
- Báo không tấn công người, anh đáp lạnh lùng.
- Đúng , không bao giờ tấn công. Nhưng con này, tôi chưa rõ nó là con thú thế nào, cụ thể con này.... Nó đã vồ một đứa bé, đã bén mùi thịt người chăng ? Nó đã trở thành con thú ăn thịt người vì già lão hay vì có cố tật ? Hay chỉ vì đã quen thói săn vồ con mồi yếu đuối nhất là .... con người... hay là nó cũng bị thần kinh như anh chẳng hạn.
Cô bước lại bên đống lửa vẻ mặt hằm hằm.
Anh không đáp lại nửa lời. Với anh, thế đủ lắm rồi. Anh nằm xuống ổ, trùm chăn kín đầu và im bặt, xây lưng lại phía cô.

.... Khi anh thức giấc, ánh bình minh đang bừng bừng đỏ rực. Cả nửa bầu trời. Sương tí tách nhỏ giọt từ cành lá sạch bong, bóng loáng như láng một nước sơn.
Người đàn bà ngồi bó chân, gục cằm lên đầu gối. Khẩu súng đặt bên cạnh trên cỏ.
- Một con người trang nhã nhất dưới gầm trời này đã tỉnh giấc nồng. Ca sĩ ! Hãy ca lên khúc bình minh- Cô nói, không mảy may dấu vết của cơn giận dữ đêm qua, giọng điềm tĩnh pha chút giễu cợt. – Họ để một phụ nữ thức canh và mãn nguyện vì đã hoàn thành nghĩa vụ, họ lăn ra ngủ...
- Riêng tôi, hình như không yêu cầu ai thức canh thì phải. Không hề có chuyện gì xảy ra. Không hề có lý do cho việc thi thố tinh thần anh hùng và việc thức canh trắng đêm đầy lòng quên mình cao cả.
- Thế ngộ nhỡ tôi thích thức trắng đêm thì sao ?
- Xin sẵn sàng tin ngay.
Trong khóe mắt, sự nghiêm túc đã thế chỗ vẻ giễu cợt:
- Tôi đã đo cự ly giữa các dấu vết. Biết cự ly dấu vết, có thể phỏng đoán kích thước con thú.
- Thế sao ? anh hỏi không quan tâm lắm.
- Chú “miu” ấy chừng mét bảy, mét tám từ mũi đến chấm đuôi. Một con vật xinh xinh, dịu hiện. Chú “miu” hiền lành có tiếng gừ êm ái ấy độ bảy mươi lăm ký. Chú cào yêu một cái thì phải toạc da cho đến bộ phận mà đôi kẻ quen dùng để suy nghĩ thay cho cái đầu – những kẻ tay không đi thăm nó ấy.
- Ô hô ! Tôi không ngờ phụ nữ cũng có tài thao thao bất tuyệt như vậy đấy.
- Đây, chàng hiệp sĩ có thể chiêm ngưỡng chú “miu” nguyên hình. Biết đâu, chàng hiệp sĩ không tin lời suông, muốn được tự tay sờ thấy chăng ? Xin sẵn sàng tạo cho chàng điều kiện ấy. Chú “miu” đã quan sát hiệp sĩ chẳng phải một tiếng và chỉ lo ngộ nhỡ làm kinh động giấc vàng bởi cuộc viếng thăm quá sớm... Cô dúi vào tay Buđrix chiếc ống nhòm dã chiến. – Tít kia kìa. Ngắm cho kỹ nhé ! Cao hơn một chút, bên trái lở tích có tảng đá. Đấy, ở trên ấy. Đang tỏ ra vô cùng quan tâm. một sự quan tâm sâu sắc đến tính mạng và sức khỏe của chàng hiệp sĩ.

Buđrix quan sát chăm chú hơn. Khi nhìn thấy con thú, anh kinh ngạc: một con báo to kinh khủng, bắp thịt cuồn cuộn dưới bộ lông bóng mượt, đang đứng trên mỏm đá quan sát, toàn thân bất động, y hệt một bức tương tuyệt mỹ. Anh thầm xác nhận là Gragina không phóng đại kích thước con thú.
Cái sọ dẹt, dường như được tạo riêng cho tư duy thú vật độc ác, cặp mắt xanh lè đứng trông, tấm thân tròn săn, dũng mãnh.
Một con báo đực to khỏe, lông màu vàng gỉ sắt, sườn và lưng màu da cam sẫm, bụng trắng như tuyết.
Và trên khắp bộ lông lộng lẫy ấy nổi lên những đốm đen xếp thành từng vệt vằn như vằn hổ. Ở sườn, chân và đầu, những đốm to hoặc nhỏ. Ở cổ, bụng và lưng là những khuyên tròn.

- Có đúng là thèm được vuốt lưng chú một cái không ? – Cô gái hỏi giọng dịu dàng ngây thơ . – Những chuối khuyên xinh ghê!
- Ồ, đồ quỷ ! Lộng lẫy khiếp !
- Một kẻ điển trai khí khó hiểu. Vốn không tấn công người, đùng cái – tấn công. Thoáng thấy hơi người thường bỏ chạy như chạy trốn tử thần. Cắt lẻn đến gần được nó khoảng ba chục mét đã là điều may mắn hiếm có. Thế mà bỗng dưng nó nằm ngay cạnh. Thế mà bỗng dưng... Tôi chịu không còn hiểu ra sao. Vì thế, tôi sợ.
- Tha lỗi cho tôi nhé. – Buđrix giàn hòa. - Cô nói đúng,. Vì cái ơn ấy, tôi xin ....Xin làm gì nhỉ ? À, đây rồi.

Mặc độc chiếc quần đùi, anh vùng dậy bám lấy cành tuyết tùng đu người trèo lên, nhanh như sóc.
- Anh leo đi đâu thế?
- Tuyết tùng. Cây nhận thức mà. Tôi xin hái cho cô một cành to có quả.
- Y như con nít....Đúng là của khỉ...Chúng lìa khỏi cành ngay ấy mà.
- Với tôi, không lìa đâu.
- Điên !- Cô nói nhỏ.

Anh tiếp tục leo lên cao hơn. Mặt đất mỗi lúc một xa hơn. Rồi sau đó cao đến chóng mặt. Nếu bay xuống, phải đến ba chục mét. Cành cứ cong xuống. Qủa thì ở mãi đầu cành.
Anh bẻ một cành to tướng có ngót chục quả, nặng như đá, cắn vào răng, và bắt đầu bám chặt thân cây, tụt dần xuống.
Khi xuống tới đất, chân vẫn hơi run run vì căng thẳng. Toàn thân từ ngực đến bàn chân đầy nhựa.

Anh đưa cành tùng cho cô gái.
- Cô cầm lấy. Đừng nên giận tôi nữa.
- Điên ! Thật như con nít. Bây giờ làm gì. Anh lấy dầu hỏa, ra sông mà rửa cho sạch nhựa. Để rồi giữa chốn không khí ngát hương rừng này anh sẽ sặc sụa mùi dầu như cái bếp gỉ.
- Không sao, - anh đáp – Trước đây tôi từng sặc sụa nhiều thứ mùi. Công việc của tôi nó như vậy mà.
- Qủy tha ma bắt cái công việc của anh đi ! Thôi tắm nhanh lên còn đi bắt bướm chứ.

........Buđrix tắm xong, đứng ngâm mình dưới nước đến ngang lưng, nghe cô gọi anh về ăn sáng.
Sương sớm long lanh, những đỉnh núi in nét rõ mồn một trên nền không khí trong vắt. Cách anh không xa , một con rái cá bò xuống bến rồi lao vút xuống mặt nước trong veo.
Bên trên tất cả, một sớm mai hồng đang ngự trị, nắng vàng đang ngự trị, sức sống đang ngự trị.

Và trên mặt nướcc chảy trôi, là thùy dương nguyên thủy ngân reo tiếng bạc ngọt ngào. Và không thể không nghĩ rằng biết đâu chưa phải mọi điều ở đời đã mất cả, rằng đường đời còn có thể ngoặt theo hướng tốt đẹp hơn, rằng trên trái đất này vẫn còn tồn tại niềm hy vọng.

XI. KHÚC HÁT TRONG ĐÊM VỀ NỖI LO ÂU

Họ lang thang suốt ngày. Một cái bóng mảnh mai của người con gái. Một cái bóng cao lớn của người con trai. Cái bóng nhỏ trắng toát của con chó. Và quanh quẩn đâu đó, rừng rậm, cái bóng đen lúc ẩn lúc hiện của con báo.
Xung quanh, cỏ phụ tử nở hoa xanh biếc – loài cỏ nảy mầm từ nước dãi dộc của con chó địa ngục Xec-ber. Lực sĩ Hêraklơ đã thuần phục nó, cứu thoát khỏi lò lửa và dắt nó đi, và ở khắp nơi nước dãi nó rỏ xuống đều mọc lên thứ cỏ giống như cái mõm xanh của con chó đáng sợ. Té ra, cháng lực sĩ Hêraklơ đi xa đến thế, ở tít tận vùng duyên hải Viễn Đông này mà cỏ phụ tử cũng mọc thành từng bụi xanh biếc phủ kín cả mặt đất.

Người con trai đi cùng con chó. Thân hình chàng cao lớn, vai rộng dũng mạnh với tư thế của kẻ quen chiến thắng, trông chả khác gì Hêraklơ. Và chốc chốc người con gái lại liếc nhìn chàng, ánh mắt ngạc nhiên lo âu và thắc mắc, gương mặt tuyệt đẹp, duyên dáng, thần sắc linh hoạt sinh động đến quyến rũ. Và chàng cũng nhìn nàng, ngắm nghía dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng, đôi chân chắc khỏe, vững mang thân hình cân đối, mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh biếc màu hoa cỏ phụ tử. Chàng ngắm nhìn mà say. Say ánh mắt biếc màu hoa phụ tử, say dáng bước, say vì nàng mỗi giây phút một hấp dẫn hơn, và vì vẫn như trước, nàng cách vời và xa lạ.

Mỗi biến động trên gương mặt ấy khiến chàng lại rơi vào một cơn bồi hồi thuyệt vọng mà chan chứa yêu thương. Chính chàng cũng không hiểu vì lẽ gì về điều quan trọng nhất, chàng lại tự thú nhận với mình muộn đến thế. Chàng cũng biết nàng không thể không cảm thấy một trái tim đàn ông đang run rẩy cạnh mình. Bởi vì dường như trên khắp trái đất này họ chỉ có hai người với nhau. Nhưng chàng còn biết một điều nữa là mình không có quyền nói gì với nàng.

Trên những bụi dương xỉ, những khóm ớt dại, thổ dương quy, táo dại Đaorow, trên những bụi hoa nhài, hoa chim cắt vàng rực, lũ ong vo ve bay lượn, cũng óng ánh vàng trong nắng. Đầu óc choáng váng như say. Có thể chết được bởi những khát vọng quá lớn. Khắc xung quanh mạch sống tràn trề, chỉ riêng người con gái kia dường như vô tình, dường như không có và cũng không muốn có mối liên hệ vơi mạch sống ấy.
...Và ngày đã tàn. Và đêm lại đến.

Họ đi bắt bướm. Họ treo một tấm ga trắng lên tường, tấm nữa trải xuống đấy. Sau đó bật gương phản xạ lên, lũ bướm từ bóng đêm bay ra. Thỉnh thoảng lại một con lọt vào gương phản xạ, đạp cánh làm bụi phấn vàng bay tứ tung. Lát sau, nó thoát ra khỏi bẫy, đậu lên tấm ga được chiếu sáng và chờ đợi. Bướm bay đến mỗi lúc một nhiều. Bóng chúng dập dờn trên tấm ga. Gragina chọn những con cần bắt và thận trọng dùng vợt chụp chúng.
Buđrix ngắm mãi không biết chán mỗi cử chỉ, động tác của cô. Mỗi động tác đều có vẻ đẹp thanh cao, tươi trẻ, đều tràn trề nhựa sống bất diệt.
Cô cảm thấy điều đó. Và cô lảng tránh.

Bướm đua nhau bay tới chỗ sáng. Những con ngài đen sặc sỡ như khảm xà cừ., những con Enxixow Vext vuđi trông như phong lan, những con bướm mắt đơn khổng lồ, màu sắc lạ lùng, vân lượn sóng ở loài Bramêi, màu sắc êm dịu hoặc xanh biếc, hoặc đỏ vàng màu đồng thau ở loài Actêmiđơ. Có những con to phải bằng cái đĩa, cánh chúng vỗ thành tiếng ngân vang trong không trung.
Một con bướm khổng lồ đậu lên ngực Buđrix, bò lên phía mặt, to dần lên như được phóng đại trên màn ảnh. Có thể phát hoảng lên được. Cặp mắt lồi to tướng phản chiếu ánh sáng, đỏ rực ánh lửa, bi thảm.

Một quái vật từ hànht tinh bí ẩn, hoang đường.
- Loài nào đây?
Con bướm óng ánh như lụa xám bạc đậu trong điểm sáng, vẻ rầu rĩ và xa vắng. Thờ ơ như người con gái kia, chỉ thoáng nhìn mà lòng đã xốn xang bồi hồi.
Bỗng....đôi cánh ngoài khẽ động, dang ra, để lộ đôi cánh trong. Trên đôi cánh trong ấy lấp lánh ánh lân tinh một dải băng rộng màu thanh thiên sẫm. Như thế con bướm bỗng hé mở cho đời thấy bản chất sâu xa nhất của nó.
- Cái gì thế ? Buđrix thì thào, lo ngại.
- Dải huân chương xanh, - cô gái khẽ đáp.
- Giống cô lắm. – Anh nói khẽ hơn.
Cô gái im lặng. Mãi vài phút sau, cô mới nói:
- Không giống tôi đâu. mà giống như cuộc sống. Cái cuộc sống mà anh không biết yêu quý. Các anh, những con người dũng mãnh, được học, mà chẳng được học gì. Các anh đã không học được bí quyết dùng sức mạnh thô bạo của các anh vào đâu, để làm gì.

Anh khổ sở vô cùng. Anh biết là không được làm như vậy, không thể làm như vậy, nhưng vẫn không kiềm chế nổi. Anh tiến một bước: trông thấy cặp mắt hốt hoảng, anh ôm lấy đôi vai mảnh khảnh, kéo cô gái vào lòng và ghé môi mình vào môi cô gái. Gragina không cưỡng lại, cô lặng người đi và hình như trong một thoáng còn đáp lại cái hôn của anh.

Anh nhìn rõ hai làn mi khép mơ màng, cảm giác toàn bộ thân thể cô như đang sắp khuỵu xuống, và anh lại càng thèm khát gắn chặt môi vào làn môi ấy, mơ hồ nhận thức rằng đó là một hành phúc chí mạng, rằng thế là hết.
Nghẹt thở, cô khẽ đẩy anh ra, hơi loạng choạng, rồi đứng lặng đi.
- Không bao giờ anh được.... – sau một phút im lặng, cô thì thào. – Không bao giờ anh được làm như vậy nữa.
- Gragina đang yêu một người khác à ?
- Không, - cô đáp sau khi đã trấn tĩnh hẳn.
- Vậy thì..... – Cổ anh bỗng khô nghẹn, - tôi rất yêu Gragina.
- Ngay tức khắc như thế à ?
- Ngay tức hắc như thế, - anh đáp giản dị.- Giờ tôi biết sức mạnh ....thô bạo của tôi cần để làm gì. Để yêu người tôi yêu. Để bảo vệ nàng khi cần thiết.
- Thôi mà. Điều đó sẽ chẳng mang lại được gì cho anh ngoài những đau khổ. Anh nên thôi đi kẻo muộn.
- Đã muộn rồi, - anh nói nhỏ. – Sao Gragina lại nói như vậy ?
- Anh thừa biết !
- Chẳng lẽ câu chuyện đáng buồn nọ ? Sao cô lại...
- Đúng vậy. Chính câu chuyện đó... Tôi không ưa chư vị “chúa tể”, “nhà chinh phục”, không ưa các “công chủ” của sự sống. Các anh hoành hành cái sự sống đáng thương ấy. Các anh là ông chủ mà. Là thiên sử lưỡng chi mà. Là các nhà chuyên đem sự sống ra làm thí nghiệm ấy, không thể nhìn mặt các anh.

Cô im bặt. Anh cũng lặng thinh, cảm thấy mình đang rơi xuống vực thẳm của tuyệt vọng.
- Anh Buđrix yêu quý, hãy tha lỗi cho tôi. Tôi không thể đem lại gì cho anh. Anh đã có cả rồi. Anh đôn hậu, tốt bụng. Nhưng anh dũng mạnh. Anh có một công việc khắc nghiệt, hoàn toàn lý trí, không chấp nhận, dung tha những do dự. Bản thân anh cũng như vậy.
- Trời, Gragina nhầm to rồi!
- ....Cho nên tôi có thể đem lại cho anh những gì cùng lũ bướm và vài ba loài cây cỏ của mình? Chẳng lẽ tôi sẽ đem lại cho anh sự sống hằng tồn tại nơi nơi ? Anh không cần thứ đó. Ang thường quen nhào nặn, cắt xén cuộc sống ấy, chà đạp lên các quy luật của tự nhiên....
- Đừng, không nên, - anh gần như rên rỉ.
- Đúng , chả nên. Ta lại gần lửa đi.
Gragina tắt gương phản xạ. Xung quanh tối sầm. Chỉ còn vài đốm than hồng leo lét trong đống tro tàn.
- Nhưng thiếu Gragina, tôi cũng không thể sống nổi, - anh vẫn khăng khăng. – Gragina biết rất rõ điều đó. Tôi không nhớ điều đó bắt đầu từ bao giờ, nhưng khi vừa hiểu ra điều đó thì tôi cũng tức khắc hiểu ra rằng không thể sống thiếu Gragina được.
- Anh đừng nói nữa, - cô khẩn khoản. – Đừng nói nữa nhé !
- Họ bước lại bên đống lửa. Anh bắt đầu bẻ cành khô thì cô gái chợt nhìn thấy gì đó, thét lên.
- Gì thế ?
- Dấu chân, - cô nói.
- Ngay sát gờ khoảng đất trống để đốt đống lửa, ngay trên tro hằn lên một dấu chân báo tròn và to bằng chiếc lá hoa súng. Con thú vừa mới đặt chân đến đó thôi: dấu vết vẫn còn chưa lắng hết bụi.
- Thật không thể tưởng tượng được. Con này điên rồi. Cứ như bị quỷ ám.
- Tại sao thế ?
- Anh hiểu không: nó dám bước chân lên tro nóng !....Một điều không thể tưởng tượng được ! Không thể có chuyện ấy trên khắp mặt đất này. Không một con thú nào dám xông thẳng đến nơi có hơi người, hơi sắt hoặc mùi khói. Con này bị điên.

Ngay lập tức, như thể đáp lại lời cô, trong bóng tối vang lên một tiếng rú điên khùng, tiếng rên rỉ đau đớn của con báo khổng lồ vừa bị thương.
Tất cả xung quanh đều lặng đi. Và trong sự chết lặng đi vì khiếp sợ ấy chỉ còn tiếng rên rỉ điên khùng, dường như chứa đựng toàn bộ nỗi đau đớn của cả thế gian cùng khát vọng báo thù.
- Có lẽ tôi phải cho một phát, - cô gái rít qua kẽ răng.
- Không nên. – Buđrix can – Không được bắn cơ mà. Bình tĩnh nào!
- Ừ nhỉ, không được thật. – Gragina nói- Nhưng cũng không thể ở lại bên đống lửa này nữa. Chắc hẳn nó bị bỏng. Giờ thì không thể lường nổi nó sẽ làm những trò gì. Anh vào nhà đi. Dắt theo cả con chó nữa. Hôm nay, anh sẽ ngủ trong nhà.
- Có lẽ lần này cô nói đúng, - anh đáp.

Họ bước vào nhà. Que diêm xoẹt một tiếng nhỏ bùng lên soi sáng những ngón tay thon dài và gương mặt thảng thốt của cô gái.
Cô thắp ngọn đèn dầu. Trong nhà sáng lên một chút. Dưới ánh sáng tù mù, Buđrix thấy tường gỗ mốc thếch trăng trắng. Một nửa gian kê ván nằm, lót ổ rơm, trên phủ tấm ga vả thô. Sát trần treo vài ba cái xích đông, chất đầy những ống bơ, những gói to nhỏ. Bên trái cửa ra vào, đặt một bếp gang, trên bắc cái xô với khoai tây, ấm đun nước. Bên phải, dưới cửa sổ duy nhất, kê chiếc bàn mộc và một ghế băng.

Giữa bàn và ván nằm kê một cái hòm gỗ to. Chắc để thực phẩm. Đề phòng có con thú nào mò vào khua khoắng. Trên bàn để cuốn “sổ trực” dày cộp nhàu nát. Ngoài ra, không còn thứ gì khác. Buđrix quăng chăn và áo khoác lên ván nằm.
- Gragina sửa soạn ngủ đi. Tôi sẽ quay mặt đi.
- Anh cài cửa chặt vào. Tên cướp ấy vẫn lởn vởn quanh nhà đấy.
“Tên cướp” quả đang đi rảo quanh lều, gầm gừ, khò khè, thảnh thoảng lại gầm lên vì tức tối.
Con Amur chui tọt xuống gầm phản và không ló đầu ra nữa, như cố thủ trong chiến lũy. Buđrix gài móc cửa, chẹn một thanh gỗ lớn, đoạn ngồi xuống cạnh bàn, quay lưng lại phía phản, giở cuốn “sổ trực” ra.
Những dòng ghi chép thuộc đủ lại. Nghiêm túc có, đùa cợt có.
“Tôi phát hiện bộ mũi ông Uxiri ở ranh giới rừng dây leo”. Chữ ký. Ngày tháng.
“Masa, cô chẳng khác gì một con chìa vôi. Ngúng ngoẩy cái đuôi vừa vừa chứ”. Ngày tháng. Chữ ký loằng ngoằng.
Sau lưng Buđrix. Gragina thay áo ngủ; tiếng cỏ khô sột soạt, rồi tiếng ván cót két nhè nhẹ.

“Phát hiện sâu ăn lá đẻ gần trạm canh số hai. Phải tức khắc xử lý, kẻo không tránh khỏi thảm họa năm 1960”.
“Sẽ rất kỳ thú nếu được chứng kiến cảm giác của Vaxia và Alêna khi cặp này ngồi phải tổ tò vò”.
“Cậu ngu như lợn. Piôt ạ”
“Phát hiện gián cầy di tích. Tôi cho rằng thuộc loài đẻ con. Theo dõi khu vực phía bắc suối Cạn”.
“Các bạn sinh viên thực tập! Xin đừng bắt nạt lũ rắn lải Srênka. Chúng thuộc loài bò sát, tức thị là chỗ họ hàng với các bạn đấy”.
“Rađôska ! Nhà kiến học trẻ tuổi xinh xắn ơi ! Đôi tay nõn nà ấy đâu phải để vầy kiến! Anh xin hôn chúng”. Chữ ký lèm nhèm.
“Hôn kiến hay hôn tay ?”
“Tay, có điều không phải tay cô đâu, ễnh ương ạ!”
Họ vui nhộn trẻ trung, vững tin vào hạnh phúc, nhẹ dạ một cách thâm thúy. Tất cả còn đang ở phía trước họ. Riêng anh, sao không may đến thế ?
- Anh có thể sửa soạn đi nằm được rồi đấy, - cô gái nói nhỏ.
Buđrix quay lại. Gragina nằm sát vào tường. Đôi mắt tối đen nhìn trần nhà, hai cánh tay để trần đặt trên chăn. Môi mím chặt. Bắt gặp ánh mắt dò hỏi, bí ẩn của cô, Buđrix cười khẩy. Hình như trong giây lát cô hiểu tất tật mọi điều đang diễn ra trong lòng anh, nhưng rồi lập tức nhìn lảng đi nơi khác.
Lòng anh se lại. Cảm thấy thế là chấm dứt tất cả, anh thổi tắt đèn, trèo lên phản nằm ngửa mặt lên trần, hai tay gối sau gáy. Khung cửa sổ mờ sáng. Một đêm tối như mực.

XII. BÀI CA CỦA MUÔN BÀI CA.

Nửa đêm, tít đâu trong núi có tiếng nai rống. Như thể chúng không muốn cho ai ngủ yên. Tiếng rống của chúng rất gần với tiếng gầm của hổ, tụât kỳ lạ là con thú hiền lành ấy lại có thể phát ra tiếng kêu ghê rợn như vậy.
Và con báo vẫn lởn vởn vòng quanh cái lều nhỏ giữa rừng. Thỉnh thoảng lại gầm gừ. Rình rập gì đó trong đêm tối.

Buđrix cảm thấy cô gái không ngủ. Từ chỗ cô nằm không vọng lại một tiếng động nhỏ, nhưng anh tin chắc rằng cô không ngủ và biết là anh cũng không ngủ. Lẽ ra anh nên nằm ngoài trời. Cạnh đống lửa lớn. Amur cứ cho nằm trong nhà, còn anh – anh nằm cạnh lửa. Trong nhà quá nóng. Ngoài kia, trời đêm sao sáng tĩnh mịch. Mặc xác nó, cái con báo thổ phỉ ấy. Sẽ chẳng có gì xảy ra sất. Cầm theo khẩu súng để ngay cạnh sườn, thế là ổn tất.

Cô gái không ngủ. Cô sẽ được yên tĩnh hơn, nếu như anh nằm cạnh đống lửa. Cô sẽ ngủ được. Sẽ ngủ ngon lành, để sớm mai dậy đón bình minh, đón núi rừng, đón vầng mặt trời rạng rỡ. Cứ yên tâm nhé, bé gái. Cứ yên tâm nhé, con người. Cứ yên tâm nhé, thùy dương nguyên thủy. Mọi điều đã trở lại như ban đầu. Em cứ sống thanh bình như xưa. Thật đáng tiếc vô cùng là sự thể lại xảy ra như vậy. Ngày mai anh sẽ ra đi. Hai người sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Nàng sẽ ở đây. Bướm đêm sẽ bay lượn, hoẵng nai vẫn lang thang các nẻo lối mòn, thùy dương nguyên thủy tiếp tục rung rinh trước gió những chiếc lá trong suốt.

Còn anh, anh sẽ trở về xứ sở của mình. Sẽ nói với “sếp” rằng anh chẳng cần “trở lại với thiên nhiên”, rằng anh muốn nhổ toẹt vào sự trở lại ấy. Cái đầu sẽ khỏe lại ư – rất tốt. Không khỏe lại ư – thây kệ nó. Anh chẳng cần. Xin “sếp” cứ cho việc. Càng nặng nhọc càng hay. Rút cục, ngay cả tâm thần cũng cần phải nắm chắc trong tay đôi găng thép và giữ cho vững, chừng nào còn đủ sức lực. Việc gì mà phải buông thả như vậy nào ?”

Anh hình dung những ngôi nhà quen thuộc. Hiệu cà-phê, nơi bạn bè anh ngồi tranh luận đến khuya. Máy Xincrôtazôtrôn kiên cố như chiến lũy. Mặc cho quỷ tha ma vắt cái vụ “giản dị hóa” này đi, anh chán ngấy rồi. Cả cái “cuộc sống đơn sơ mà lành mạnh của thợ săn”, “ cả sự giản đơn nguyên thủy hồn nhiên của đạo lý” ấy nữa. Sự giản đơn mới tuyệt làm sao ! Chưa ở một nơi nào anh có thể ngờ lại vấp phải một sự rắc rối đến thế. Cầu cho nó cháy thiêu cháy rụi hết sạch đi !

.... Đấy anh đang bước vào tòa nhà đặt máy Xincrôtazôtrôn. Vòng trong gồm hai thanh nam châm khổng lồ tiếp giáp nhau... Ánh sáng trên mặt bẳng điều khiển.... Đồng nghiệp khoác áo trắng. Công việc quen thuộc, dễ hiểu. Có thể theo các bậc thang đi thông suốt ở bên trên cỗ máy khổng lồ và chui xuống, vào trong vòng tròn.
Tiếng báo gầm ư ? Không phải, tiếng còi máy rú lên đó thôi. Báo hiệu là cuộc thí nghiệm sắp bắt đầu. Phải, đúng hai giờ.

Đèn tín hiệu nhấp nháy. Trời đất ! Anh có điếc đâu mà phải cần đến đèn tín hiệu cơ chứ?

Khốn nỗi, có cả những người điếc. Mọi trường hợp đã được dự kiến.

Anh vẫn không nhúc nhích khỏi chỗ, dường như tất cả cái đó không liên quan gì đến anh. Tiếng loa truyền thanh oang oang:

- Các đồng chí chú ý! Yêu cầu rời ngay khỏi phòng. Bắt đầu đổi kíp…..Bắt đầu đổi kíp…

Tiếng nói loảng xoảng….Tiếng nói chat chúa. Mọi người hối hả đổ dồn tới các cầu thang sắt. chạy ngược lên, bước vội vã trên cỗ máy khổng lồ, tụt xuống ở phía bên kia và biến mất hút. Các bậc thang rên lên rầm rầm dưới bước chân họ.

Còi lại rú lên. Loa truyền thanh lại nhắc nhở. Mấy người khoác áo trắng đi rảo một lượt xem còn ai ngẫu nhiên ở lại không. Buồn cười thật, họ không phát hiện ra anh, đi lướt qua.

Đấy, họ đã đi suốt một vòng. Và không phát hiện ra một ai trong cái vòng trong khổng lồ to bằng cỡ toà nhà nhiều tầng.

Họ đang trèo lên. Rút cục, thế là họ vẫn không thấy anh. Bây giờ anh sẽ bí mật bám theo họ. Cho họ kinh ngạc một phen.

Anh địnhh đứng dậy nhưng không sao cử động được. Chân như thể liệt hẳn. Như bị gắn chặt xuống sàn. Thâm chí không nhúc nhích được.

Họ đã lên hết thang, đang đi lên miệng vòng tròn khổng lồ, sắp tụt xuống phía bên kia.
Đến phút này, Buđrix mới hiểu rõ điều sắp xảy ra. Anh kinh hoàng.

Anh muốn kêu lên, gọi họ đến cứu, gọi họ quay lại. Nhưng anh đã mất tiếng. Anh chỉ có thể ngồi nhìn hy vọng cuối cùng đang tiêu tan: họ đang xuống thang phía bên kia, mất hút dần. Người cuối cùng ngoảnh lại, nhìn thẳng về phía anh và… không phát hiện ra. Trốc đầu anh ta mất hút, lát sau tiếng chân bước rtên bậc thang sắt cũng im bặt.

Đến lúc này, vận hết ý chí, anh mới nhấc được chân lên khỏi sàn và nhảy những bước dài đến chân cầu thang. Nhanh lên ! Nhanh lên! Anh chạy như bay lên cầu thang, phóng đi trên miệng cỗ máy, lao xuống ầm ầm. Và đứng sững lại. Bởi vì ngay trước mặt anh, hai cánh cửa nặng trịch vừa mới khép kín, ngăn cách anh với ánh sáng, với mọi người, với người đàn bà mắt xanh mảnh mai bị lãng quên ở nơi nào xa lắc….Ngăn cách hoàn toàn với cuộc sống.

Kêu la vô ích. Sẽ không ai nghe thấy anh. Anh biết: sau cánh cửa kia, cửa thứ hai cũng đang loảng xoảng khép lại. Và những bản tín hiệu đỏ lừ bắt đầu nhấp nháy cảnh cáo.

Không đến gần ! Nguy hiểm ! Bên kia cánh cửa là cái chết!

Cái chết- và anh nữa. Mọi người rời xa toà nhà, đến đài quan sát. Dưới bầu trời chỉ còn trơ lại cái luỹ thép tròn, với hai thanh nam châm khổng lồ hình bán cung tiếp giáp nhau. Và trong vòng trong nam châm ấy, giữa bánh xe tử thần ấy là anh.

Thế là hết.
…Đã bắt đầu rồi…
Anh cảm giác thấy bằng da bằng thịt mình cái chết vô hình đang phóng đi, đang được “gia tốc” tới tốc độ vũ trụ trong cơ thể trống rỗng của con quái vật khổng lồ bằng sắt thép, nặng bằng mấy nghìn tấn này. Nó phóng vun vút và giết sạch mọi sinh vật trên đường bay huỷ diệt của nó.

Sau khi kết thúc hoạt động hai chục phút. Nó - cái chế t- sẽ không còn ở đây nữa. Nơi đây lại an toàn như trên bãi cỏ non giữa rừng. Mọi người sẽ lục tục trở lại. Nhưng đối với anh, mọi sự sẽ chỉ còn tồn tại trong dĩ vãng. Đối với anh, mọi sự sẽ vĩnh viễn kết thúc.

…..Ánh sáng đỏ lừ vụt loé lên ở một điểm, rồi bắt đầu tới tấp tia vào anh. Đồng thời một tia ý thức le lói cuối cùng mở ra trước mắt anh một cảnh thần tiên.

…Tại một miền hoang sơ xa lạ, trên bờ con suối trong xanh, giữa biển nắng chan hoà, một gốc thuỳ dương nguyên thuỷ đang mơ màng lay động, lá hình lông chim lao xao âu yếm - hạng phúc, tình yêu, mà anh đã lãng quên để đi tìm cái chết.

Bóng tối đỏ lừ sắc màu bùng nổ. trong ngọn lửa ấy, hằng hà sa số những đàn hoẵng cụt đầu lao thẳng vào anh.
Đúng giây phút ấy, cuối cùng, tiếng thét thất thanh đã bật được ra, đã thoát khỏi sự đè nén ngàn cân. Tiếng thét lâm chung, tiếng thét sinh nở - tiếng thét câm lặng, dường như chính trái đất bị diệt vong.

….Đêm. Bóng tối mù mịt trong gian lều. Ngoài cửa sổ, một chấm đỏ leo lét của đống lửa đang tàn.

- Sao thế anh ? Anh làm sao thế ? Anh làm sao thế?

Vẫn chưa tỉnh hẳn - tiếng thét kinh hoàng còn ngân đọng trên môi, vẫn còn chìm đắm trong ma lực của những hình ảnh đẫm máu, cụt đầu – nhưng anh đã cảm giác được đôi lòng bàn tay dịu dàng trên vai mình, những sợi tóc tơ mịn màng loà xoà xuống má mình.

- Xincrô… - anh lẩm bẩm, vô ý thức, - họ đóng.

- Anh sao thế….Im nào….Thôi im nào, anh…- nàng thì thầm, nhưng giọng kiên quyết. – Em biết rồi.

Đôi bàn tay mảnh mai nhẹ nhàng luồn xuống đỡ vai anh, lay tỉnh:

- Anh sợ lắm ư? Đừng sợ nữa, không nên sợ. Đừng để tâm nữa. Em đã lầm. Em đã ngu ngốc. Tất cả, mọi sự không phải như vậy đâu….

Cơn ác mộng tan dần. Những hình bóng quái đản cuối cùng biến đi. Đến lúc ấy, anh mới hiểu ra mình đang ở đâu, chuyện gì đang xảy ra. Anh dang hai cánh tay vào bóng đêm, ôm lấy vai nàng, nhẹ nhàng áp sát mình. Một luồng run rẩy chạy suốt toàn thân anh…

- Anh bé bỏng của em, “vị chúa tể” đáng thương của em… kẻ đã chinh phục em…Chủ nhân của sự sống. Anh đã thấy sự sống báo thù thế nào rồi chứ ? Em sẽ không rời bỏ anh nữa. Sẽ không trao anh cho ai nữa đâu.

Anh áp đầu nàng vào ngực mình, vuốt ve mái tóc bờ vai.

- Sao em nỡ…? Chẳng lẽ em không thấy…là anh yêu em…. Anh yêu em…

- Em biết… Em biết. Anh tha lỗi cho em. Em sẽ không cho phép họ làm anh mất trí. Em sẽ không để cho ai được chà đạp anh, chà đạp sự sống. Trời, tim anh đập dữ quá. Chàng trai bé bỏng của em! Anh thân thương của em!

Nàng hôn anh. Và anh, hầu như trong cơn hôn mê, cũng lần tìm làn môi, cặp môi, đôi mày của nàng. Chưa bao giờ trong đời anh có cảm giác hoà nhập, gần gũi đến như vậy, hạnh phúc đến như vậy. Và anh biết: sẽ không bao giờ còn có nữa.

Bộ ngực tròn căng, làm da mịn màng, cặp môi nóng hổi trong đêm. Tim anh ngừng đập, rơi, rơi mãi xuống vực thẳm hoang lạc, trong niềm vui tưng bừng của sự chờ đợi.

Nàng ở đây, trọn vọn, kề sát bên và vĩnh viễn. Xung quanh dày đặc bóng đêm, nhưng nàng ở bên anh. Buông nàng khỏi vòng tay hoà nhập, dẫu chỉ một giây cũng là tội lỗi. Chính bởi lẽ xung quanh dày đặc bóng đêm.

Hai bờ vai tròn lẳn, hoàn mỹ như hai đoá hoa, hai nhành tay thanh tú , làn môi ngoan ngoãn, vòng ôm thuỷ chung, vừa dịu dàng, vừa mãnh liệt. Tất cả điều khiến anh chan chứa một hạnh phúc chưa từng.

- Cùng với anh,- anh thì thầm.- Như thế này. Mãi mãi nhé!

- Vâng …Em khôngmuốn …Không muốn làm khổ anh nữa.


Đêm lững lờ trôi đi trên đại dương sóng nước, trên tàu đánh cá ngoài khơi, trên các mỏm đá, trên thung lũng kẹp giữa những dãy núi cao, trên dòng sông mơ màng không ngủ, trên căn lều nép vào bờ, trên đôi lứa thức trắng trong đêm và không mong đợi bình minh.

- Em là một cô bé ngốc nghếch, - giọng anh thì thầm, đứt đoạn vì âu yếm và hàm ơn.- Ngốc lắm ấy… Từ nay vĩnh viễn là của anh. Em yêu dấu, đường đến em sao mà dài lâu. Anh cám ơn số phận về chặng đường dài lâu ấy…. Anh cám ơn số phận là chặng đường dài ấy đã kết thúc. Thật hạnh phúc xiết bao là nó đã kết thúc mà không bao giờ hết.

- Khẽ chứ, anh. Em sung sướng quá. Em sợ nữa. Anh im lặng nhé!

Họ nằm nép sát vào nhau, lắng nghe rừng Taiga.

Đâu đó trong núi văng vẳng tiếng nai kêu. Đống lửa tàn dần, lụi dần trong tro than.
Con báo vẫn lởn vởn quanh nhà, thỉnh thoảng lại gầm gừ. Quen thói giành những chiến thắng dễ dàng ở núi rừng phương xa, nó mò đến đây, điên khùng, chưa hề bị ai kháng cự lại, nên nó cứ lởn vởn vòng vo, mỗi lúc một trở nên láo xược hơn, bởi không hiểu lẽ thiêng liêng của mảnh đấy này. Ở đây không ai săn bắn, Ở đây không có sự trừng phạt, Bởi vậy có lẽ nó nhầm tưởng lòng nhân hậu và cao thượng của con người là sự mềm yếu, là tính nhu nhược, thỉnh thoảng lại xé toạc màn đêm bằng những tiếng gầm gừ tức tối.
“Chúng run rẩy bên những đống lửa. Chúng run rẩy trong những ngôi nhà. G-rừ-grừ-grừ. Chúng không có lông lá che thân, mảnh khảnh, yếu đuối…K-khừ…K-khừ…Krừ….m-rừ….grừ…Ra đi, hỡi những miếng mồi ngon!”

- Thật khủng khiếp phải sống như nó, - nàng thì thào.

XIII. BÀI CA VẦNG DƯƠNG CHÓI LỌI

Cõng cô gái trên vai, anh mang cô qua suối, rồi lên núi, theo một sườn dốc thoai thoải, rào rạt cỏ xanh mơn mởn.

Vầng mặt trời đã lên khỏi ngọn núi. Đôi tay cô gái mà anh nắm chắc trong tay anh ánh lên sắc đồng.

Anh có thể mang cô như vậy đi mãi mãi. Một sinh lực kỳ lạ, mới được giải phóng, tuôn chảy khắp cánh tay, lồng ngực anh, khiến anh cảm thấy nhẹ nhõm, như thể được chắp thêm đôi cánh, lồng ngừng hít thở sâu mạnh như bễ lò rèn, các bắp thịt săn căng.

Buồng phổi nở nang bởi luồng gió ngào ngạt hương sắc từ phía rừng thổi tới, bởi hơi mát lạnh trong lành từ núi cao tràn về. Cẳng chân săn gân như có cốt thép, không biết mệt mỏi, sẵn sàng đưa anh cùng người con gái đi mãi về phía mặt trời.

- Bỏ em xuống. Anh sẽ mệt đấy.

- Anh á? – Anh chạy ngược lên dốc, và Amur, chắc hẳn có đầy đủ cơ sở kết luận rằng chủ nó đã loạn trí, tuy nhiên nhìn chung thì nó tận hưởng trạng thái mới mẻ ấy, lập tức sủa vang lanh lảnh, đuổi theo làm ra vẻ muốn đớp lấy gót chân ông chủ.

- Bỏ xuống kìa!

Thay vì câu trả lời, anh tung cô gái lên không trung. Một lần nữa. Lại một lần nữa.

- Mặt trời! Cả một vầng trời. Này, em cầm lấy!

- Nào, thả em xuống đi!

- Từ trên cao, từ khoảng xanh mênh mông, cô nhìn xuống anh bằng đôi mắt dịu lại, diệu kỳ. Cô thấy mái tóc tối bù, cặp mắt long lanh, cái miệng cười tươi, phô hai hàm răng trắng muốt.

- Để em, - cô co rúm trong vòng tay. Nhắm nghiền mắt lại và khẽ khàng chạm làn môi mình vào miệng Anh.

Cô cảm giác mình vừa yếu đuối lại vừa có uy quyền tuyệt đối với anh - một cảm giác mới lạ - tràn ngập trái tim cô.

“Anh y như một con mãnh thú to lớn mà hiền lành. Như con voi hay con gấu. Khoẻ vô cùng, nhưng lại sợ sức mạnh của chính mình, giàu lòng chắc ẩn, dễ dàng vâng theo một ánh mắt đầu tiên. Thế là đúng. Chẳng phải ta đã là của riêng anh rồi đó ư?

Họ đi trên đường mòn.

- Con gì xanh xanh đang bay lượn trên ngọn cây thuỳ dương nguyên thuỷ kia?

- Hoạ mi xanh đấy….Hôn em đi.

Hình như cô uống không biết chán ánh nắng và sự gần gũi của anh.
Một anh sáo đá véo von khúc ca mê ly cuối cùng của nó trong mùa hè này. Một chị vàng anh Trung Quốc đầu đen tuyền, hót líu lo trong buị cỏ sặc sỡ.

- Thế nhưng rừng Tai –ga vẫn như lặng tiếng, - cô gái nói- anh phải nghe tiếng rừng vào tháng năm mới mê hồn. Bây giờ vắng hết rồi. Cả lũ chim én Đaurơ cũng đã bay về phương Nam.

Một con chim xám nhỏ xíu chuyền cành ngay trước mặt họ.

- Thế chim gì đây?

- Chim sâu Đông – Á Li-u. mụ phù thủy đấy. Chuyên quyến rũ đánh lạc hướng những người săn tìm nhân sâm.

- Vậy thì cớ sao nó quyến rũ chúng mình? Chúng mình có đi tìm nhân sâm đâu?

- Anh có muốn không? – bỗng cô thốt lên hào hứng. – Em biết chỗ có đấy. Nếu anh muốn, em chỉ cho mà xem.

- Muốn chứ ! – anh nói.

- Đây, từ đây, bắt đầu họ hàng thân thích của nó. Bộ thổ dương quy. Eleutherococus, Thổ dương quy lục địa. Kia những chùm quả đen mọc liền, kia là cantopanax hoa khóm. Còn kia, ở vùng này gọi là “cây quyến rũ”, lá như lá nho. Tên la-tinh của nó kêu lắm cơ. Echiopanax Elatum nacai.

- Em biết nhiều kinh khủng, hôn em sợ lắm, - anh hôn lên môi cô.

Họ vừa đi vừa đùa nghịch, bịa ra cho nhau những chức danh mới.

- Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp chuyên trách số lượng đàn bướm Mahagori.

- Đại diện quyền lợi họ báo ở Liên hiệp quốc.

- Chủ tịch suốt đời của Đại hiệp hội phụ nữ chống vật lý học.

- Yêu tinh râu xanh tầm cỡ toàn vũ trụ. Kẻ đại bợm chuyên ngốn thịt đàn bà con gái.

Buđrix phì cười.

- Đấy mà là chức danh à? Cái đấy lôi ra từ trong kho tàng các tiếng chửi rủa chứ.

- Xứng với anh quá còn gì!

Anh vừa đi vừa ngắm nhìn cô gái. Chẳng hiểu căn cứ vào những đặc trách nào mà nàng tìm được những loài cỏ cần tìm. Nàng cúi xuống, phân tách chúng ra hoặc thận trọng đào cả rễ. Nàng tìm kiếm. Làm việc.

- Khi nàng cúi xuống, đôi chân thon dài, khỏe chắc căng thẳng, eo thắt đáy lưng ong mềm mại uốn con như cánh cung, mái tóc xõa xuống và nàng lấy mu bàn tay gạt chúng lên – một cử chỉ muôn thủa mà vẫn của riêng nàng. Anh những muốn ngắm nàng mãi mãi, suốt đời.

Và anh mải mê ngắm nghía, khiến nàng đã mấy lần phải ngước mắt lên, lo lắng nhìn anh. Vốn xanh trong, nhưng khoảng khắc ấy, chúng sa sầm.

“Anh đứng yên đó. – cô gái thầm nghĩ. – Vậy mà em không tài nào trốn tránh anh, bởi anh thanh khiết và dũng mãnh quá. Bỏ chạy ư? không được. Không thể làm cho anh buồn tủi vì sự ngây thơ của anh. Chính do sự ngây thơ ấy mà anh chả hiểu ra tí gì. Cả giây phú này anh cũng không hiểu, không linh cảm gì. Không nên đường đột như vậy, một khi còn chưa hiến dâng hết. Trời, anh vàng rực bởi ánh mặt trời. Anh mở toang cửa lòng đón ánh nắng và đón em. Anh cởi mở nhanh quá đi ! Và em sẽ làm cho anh mãi mãi sẽ như vậy, anh yêu dấu, anh nhân hậu và cao đẹp của em !”

Họ lên đến cao nguyên. Ban đêm ở đây có lẽ lạnh hơn, vì vậy mà có nhiều lá đỏ ối, đỏ da cam, đỏ tím, vàng rực, vàng dịu. Nhưng giờ đây không khí nóng rực và oi bức đang ngự trị, từ những bụi rậm phả ra một hương thơm ngây ngất , lạ lùng.

- Mùi dây tóc tiên đấy, - nàng nói. – Rừng nhiệt đới mà.

Họ đi về phía khu rừng đó qua những bãi cỏ, nơi giữa thanh thiên bạch nhật mập mờ ánh trăng xanh, bàng bạc, bí ẩn. Ấy là hàng trăm ngàn cụm hoa hình chân chim miscantun đang lay động. Biển trăng thanh ấy dập dờn mênh mang.

Rừng hiện ra đột ngột, núi đồi đổ xuống bóng tối đen. Những thân cây đồ sộ cao đến bốn chục mét, bóng tối u ám. Cây đổ ngổn ngang, bụi rậm chằng chịt, vài vệt nắng hiếm hoi, yếu ớt. Những chùm quả đen xì của Eletherococcus, mọc cụm thành hình cầu, nhũng tán lá như màu đồng, những chùm quả nho màu xanh đen.
Cây cao to như tháp. Từ trên cây dây leo to bằng bắp đùi rủ xuống, lòng thòng hoặc uốn quanh thân cây như những con trăn. Tất cả chằng chịt, rối tung. Cả một mảng hàng trăm nghìn con rắn gỗ. Chúng leo đến tận ngọn, bò sang những cây bên cạnh, rủ xuống lòng thòng. Và chót vót tận đỉnh ngọn cây mới lác đác vài cái lá dây leo.

Chúng cướp ánh sáng, bóp nghẹt, che kín tất cả. Đôi khi chúng giết chết cả cây chúng leo nhờ. Đây là một cây hoàng bá chết khô. Kia, lại một cây tuyết tùng khô héo. Những dây leo actiniđia với các chùm quả ngọt như mật, vươn mãi lên phía mặt trời.

Trên thân những gốc tuyết tùng đổ mọc lên nhiều loài nấm kỳ dị. Mịn màng trắng toát hay hồng hồng, nhiều cành nhánh như san hô, khắc trổ tinh vi.

- Anh ngắt đi, - cô gái nói.

- Không được phép.

- Được, sắp rét rồi.

- Nhưng để làm gì?

- Để làm một bữa tối đế vương. Vùng này gọi “nấm chạc”, hoặc “mì ống Trung Quốc”. Vì nó mà người ta đã chặt hại tuyết tùng nhiều hơn là để xây dựng thành phố. Ở Trung Quốc, nó quý gần ngang vàng. Vì thế người Trung Quốc kéo từng hội từng phường vượt biên giới sang đây ngả những cây to nhất, càng già càng tốt vì nó sẽ mục rất lâu, sẽ khai thác được nhiều năm liền. Khi gỗ đã mủn ra, người ta cấy nấm vào thân cây, cái thứ “nấm chọc” ấy, rồi nấm sơn du, nấm “tai gấu” nữa. Một năm sau, họ đến thu hoạch nấm.

Buđrix thận trọng nhặt mấy cây nấm. Thân nấm mát rượi, hương ẩm ướt thơm ngon như nấm thông. Gragina dùng gậy gạt ra tìm gì đó.

- Em này, - anh nói nhỏ. – Em có biết khi cả hai chúng mình đã già rồi, anh sẽ hồi tưởng những gì không ? Sau một nghìn năm nữa ?

- Những gì ?

- Chính cảnh này. Hình ảnh em đứng giữa rừng hoang sơ này. Những dây leo như rắn. Dây nho leo “nấm chạc” như san hô.

- Em cũng thế.

- Một con ngòi nhỏ chảy trên núi đá xuống vũng nước sâu, tung tia nước mát lạnh trên đầu họ, long lanh những giọt ngũ sắc trên bờ vai nóng rát ánh nắng. Họ nằm tỳ vào nực vào miệng, cố tóm lấy tai con Amur đứng thấp hơn họ một bậc. Amur lười nhác nhấm nhản cắn laị họ. Rõ ràng nó cũng lấy làm khoan khoái.

- Những hàng cây mọc dày đặc sừng sững như bức tường, cành lá xanh tươi lòa xòa, dây leo lòng thỏng rủ xuống như thể muốn quấn chặt lấy hai người.

....Sau đó Gragina lôi anh rời thác nước, dắt anh luồn sâu vào bụi rậm
.
- Hình như ở đây. Stốp! Bỏ ba-lô. Cả súng nữa. Đi !Cô tiến ba bước và dừng lại dưới cây dẻ Mãn Châu, dưới gốc mọc dày đặc những bụi cây xanh rì.

- Anh chưa nhìn thấy gì à?

- Chưa.

- Thế thì nhắm mắt lại một phút. Và nghĩ về một điều gì đó tốt đẹp. Không được đến đây với điều ác độc trong tim.

- Anh sẽ nghĩ về em.

Và quả thực, anh thầm nhớ lại căn lều trong đêm qua, tiếng lá rừng xào xạc và làn môi của nàng.

- Anh nhìn đây, - cô thì thào.

Dương xỉ cùng các cây cỏ khác bị dẹp sang bên. Giữa khỏang trống hiện ra một cây con thấp bé, mảnh dẻ, nhưng có một dáng dấp trang trọng, thân thẳng, lá năm cánh, trổ lổ lổ .

- Nó đấy à?

- Nín thở, anh! Nó hay bẽn lẽn lắm, thở mạnh nó có thể chết đấy.

- Tại sao thế?

- Tại vì toàn bộ sức mạnh nó giấu kín dưới rễ. Để dành cho những kẻ khác. Bao giờ anh không yêu em nữa thì hãy trở lại đây, tìm đúng chỗ này và thực hiện một tội ác duy nhất – đánh cắp nó. Ngày ấy nó sẽ mọc to, già và thông thái rồi. Và thế là mọi điều sẽ trở lại với anh : dòng sông, tháng chín, và những cây thùy dương nguyên thủy.
- Anh sẽ không đánh cắp nó. Bởi anh sẽ không bao giờ thôi yêu em.

- Anh đừng nói thế, - giọng cô bỗng trở nên lo lắng. – Đừng buộc em phải hối tiếc về nhiều hành động của mình.

- Em chẳng việc gì phải hối tiếc.

Họ ngồi bên cây nhỏ nọ. Vai kề vai.

- Khoan đã nào, để em che nắng cho nó. Những tia chiếu thẳng cũng có thể giết chết nó. Nó mong manh như tình yêu ấy.

- Cô đan cỏ trên đầu cây.

- Ta lui ra xa đi: giờ thì anh sẽ nhận ra nó chứ? kể cả khi lấp dưới cỏ chứ ?

- Giờ thì anh sẽ nhận ra.

- Ta lui ra một chút. Biết đâu, những cặp mắt nhìn lâu cũng hạm hại nó.

Cây nhân sâm mọc cách họ có vài ba bước. Loài cây cổ xưa, dịu hiền, nhân hậu. Họ ngồi xuống cỏ và mải mê ngắm nó.

- Thôi để nó mọc- Cô nói, ngả đầu vào vai anh. – Lạ thật...Chưa bao giờ lòng em thanh thản như bây giờ. Hạnh phúc nữa. Thật kinh khủng là sẽ không bao giờ nữa. Ngộ nhỡ không bao giờ thì sao?

- Em sao thế? – anh ôm vai cô, áp sát mình. – Em sao thế? Muốn anh chết à?

Ánh nắng và bóng râm đan nhau nhảy nhót trên người họ. Rừng già xung quanh đan quện, xoắn xuýt. Hương rừng phảng phất hơi thở người con gái kề sát bên môi anh.

- Có sự bất tử không anh ?- Cô hỏi.

- Có. Bởi vì anh yêu em.

- Điều kỳ lạ nhất là em cũng yêu anh. Ngày hôm qua em cũng còn chưa ngờ tới điều ấy. Mới đầu em chỉ thấy vui vui được ngồi bên anh. Thế thôi. Rồi sau đó anh hôn em. Và dường như thức tỉnh em. Về sau em mới hiểu ra sự yếu đuối của anh, chàng hiệp sĩ hoang dã, không thể thương được ạ ! – Cô vuốt ve mái tóc anh. Em biết: rồi sẽ chẳng tốt đẹp gì. Nhưng vẫn không đừng được. Em mê mệt mái tóc này, đôi mắt này, cặp môi này, đôi tay này... Một tên chuyên săn trộm ngu ngốc đây. Em muốn anh mãi mãi nghĩ về em, em muốn không bao giờ điều này qua đi.

- Sẽ không bao giờ cả.

- Chỉ mong sao được như vậy...

Đôi mắt ấy tràn đầy nỗi đau đớn sâu sắc và một tình yêu bao la khiến Buđrix phải giật mình vì lòng thương xót và khát vọng che chở.

- Em bé nhỏ, em yêu thương...Em nghĩ vẩn vơ gì thế ?

- Em biết trước, có vậy thôi. Em sẽ không chịu đựng nổi điều đó.

- Nhưng em sẽ không phải chịu đựng điều đó, - anh hôn đôi mắt cô.

- Em sẽ làm đúng như thể ông Ađam sau khi phạm tội tổ tông. Gương mặt tội lỗi ngây ngô, bản thân chưa hiểu rõ điều vừa mới xảy ra... Nhưng vẫn thân thương nhất.
Trong lời lẽ cô gái, trong giọng nói, ánh mắt, trong cử chỉ đụng chạm của bàn tay có gì đó mê hoặc, ám thị. Dường như chính sinh lực lan truyền sang anh.

- Anh hãy tin rằng sẽ không bao giờ có điều gì khủng khiếp xảy ra với anh nữa. Em đảm bảo với anh. Anh hãy tin em.

Tất cả điều đó khiến anh vô cùng lo lắng, Nhưng cũng chính nó chứng minh cho sự đồng cảm to lớn, sự gần gũi chứa chan hạnh phúc của anh với người con gái kia- người đàn bà duy nhất của anh.

Bỗng cô nép sát vào người anh như thể tìm sự che chở.

- Thật đáng sợ. Có lẽ từ nay em không thể thiếu anh một giây phút nào. Rồi đây sẽ ra sao?

Dây leo như những con rắn khổng lồ đan bện nhau cuốn quanh các thân cây, xiết chặt. Chúng dệt thành mái dày đặc che trên những nhành lá nhỏ bé của nhân sâm, chúng bóp nghẹt các cây tuyết tùng không thương tiếc.

Những vòng ôm của họ còn nghẹt thở hơn, còn chí mạng hơn, như thể đó là lần cuối cùng trong đời.

Vòng ôm thô bạo mà êm ái – như chính sự sống, vòng ôm không thể chia lìa – như bầu trời trên mặt đất muôn thuở.

XIV. BẢN BALLADE VỀ CON BÁO KHÔNG TÊN VÀ CON CHÓ TRẮNG CÓ TÊN LÀ AMUR

Tối hôm ấy, sau bữa ăn tối, họ không vội vào lều.

- Đêm nay, ta nằm suốt đêm ngoài này xem nào- Cô đề nghị. Anh gật đầu

- Nếu không ngủ thì nằm đây thích hơn.

- Trong lều ngột ngạt chết được. Nếu mở cửa thì cái tên thổ phỉ nọ nể gì mà không mò vào nhà ?

Buđrix im lặng đồng tình. Trong bụng anh thầm lo những cơn ác mộng đêm qua lại tái diễn. Thế nhỡ nó cứ tái diễn ? Nhỡ tiếng nói, ánh mắt và cử chỉ đụng chạm của cô không có hiệu quả thì sao ? Nhưng anh chỉ nói:

- Chí ít ra ở ngoài này còn thấy được ánh lửa lung linh trong mắt em. Cả sao trời nữa.

- Em thì cho một trận bây giờ- sao trời cái gì. Tên kẻ cướp thì có.

Buđrix bật cười.

- Có khi đêm nay nó không mò đến nữa. – cô nói tiếp. – Nó chán rồi. Có vậy thôi. Nếu nó đến anh sẽ giết nó. Những con thú như vậy được phép giết, vì nó đã táo tợn đến mức dám rình mò cả người.

- Giết à? Nó ấy à? Em làm sao thế? Anh sẵn sàng giết bất kỳ ai, chứ không phải là nó. Nhưng bây giờ anh không đời nào giết con báo ấy.

- Em hiểu, - cô nói – con báo ấy đã tác thành cho chúng mình, có đúng không?

- Đúng thế. Nó đã hoà nhập hai đứa mình thành một.

Cả điều đó nữa, cũng đúng. Cái chết lẩn quẩn trong rừng đã đẻ ra tình yêu, sự sống. Rất có thể nó đã giải thoát khỏi mọi thứ đen tối đang rình rập con người, đã bao lâu núp chờ cho con người gục ngã.

- Họ nằm cạnh đống lửa. Ngọn lửa bùng lên cao, lem lém ngốn cành lá khô cong. Họ đã dự trữ cả một đống to tướng cành lá khô, phải đủ dùng đến hai đêm.

Ánh lửa sáng rực tràn lên các thân cây, hắt lên các tàu lá. Thỉnh thoảng vài con sóc bay lại liệng qua trong ánh lửa chập chờn. Chúng lượng giỏi, thay đổi được đường bay.

Có một lực bí ẩn hút chúng lại gần đống lửa. Bám vào thân cây hay đáp xuống cành, chúng đứng lặng đi. Những cặp mắt chúng to đen láy, lung linh một tia lửa đỏ, tò mò ngắm hai kẻ kỳ lạ đang nằm ôm nhau dưới kia, cạnh một mảng gì vàng vàng, đỏ đỏ sinh động.

Chỉ khẽ nhúc nhích là chú sóc ngọ nguậy cái mũi, lao vút đi, mất hút vào đêm đen.
Họ nằm trò chuyện về sao trời. Câu chuyện lặng dần. Nằm im thích hơn. Năm im để cảm giác hơi ấm sát ngay cạnh, cảm giác bằng tay bờ vai tròn lẳn, băng tim - sự thanh bình mênh mông của bầu trời sao, của núi rừng, của tuyết tùng, của cả trái đất, nơi từng hạt bụi cũng thuộc về họ. Về anh và về người con gái nằm cạnh . Không có gì tốt đẹp hơn nàng, hơn đêm tối này, hơn thế gian này.

Bỗng anh thấy lưng ớn lạnh. Không do tiếng động, mùi vị, luồng gió thoảng, và một cái gì đó phi vật chất. Như thể có kẻ nhìn trộm chằm chằm vào gáy anh.

Buđrix liếc về phía âý. Ở đó không có ai cả. Chỉ thấy ánh lửa chập chờn và bóng tối.
Không một dấu hiêụ về sự có mặt của một sinh vật nào.

- “Gì thế?” – Ánh mắt cô gái dò hỏi.

- “Không biết” – ánh mắt anh đáp lại.

Nhưng cảm giác bất an không qua đi. Như thể bản năng về sự có mặt, có lẽ vốn dĩ phát triển ở tổ tiên bán hoang dã, nay lại phục hồi ở anh trong mấy ngày qua.
Vùng ánh sang thu hẹp lại. Buđrix nằm bất động căng thẳng. Linh cảm mỗi lúc một tăng. Con người dường như đã cảm giác bằng làn da mình là có kẻ đang đứng trong bóng tối, hắn đang nhịp nhàng như con thuyền trên song, nhích đến gần, hầu như không cử động tứ chi.

- Con báo!!!

Và con thú báo từ trong bong đêm đáp lại dường như cũng chính bằng từ ấy, qua tiếng tắc nghẹn, sau đó gầm lên:

- K-ích…ba-áo!!!

Ngọn lửa bùng lên trong khoảnh khắc. Con người nhìn rõ cái đầu dẹt và cái mõm hung dữ của con thú hầu như ngay cạnh đống lửa.

Có lẽ con người đã nguy to, nếu như con chó Amur không kịp nhảy xổ vào con quái vật. Mõm đối mõm, nanh chạm nanh.
Tiếng gần gừ khò khè, hai thân hình cuộn vào nhau trên cỏ. Trắng và đốm, óng mượt, bắp thịt cuồn cuộn.

- Ngàu….ngàu…ngàu! Ngàu… ngàu…ngàu!

Tiếng rít, tiếng gầm gừ, tiếng gào, tiếng làu ngàu !

Buđrix giật thanh củi đỏ lửa, quăng vào con thú, Những đốm lửa loé lên, có mùi lông cháy. Một tiếng gầm rõ kinh khủng xé toạc màn đêm…Thật không thể tưởng tượng được: con báo không sợ lửa, không nhảy lùi lại. Con người ráng hết sức bình sinh đạp con thú một cái.

Con báo cuộn tròn lại như trái bóng, chồm lên không, quằn quại và gầm một tiếng điên khùng tưởng đến vỡ tai.

Nếu như nó chưa kịp xô ngã con người thì chỉ vì con chó Amur lại đã bập vào nó cắn xé, dằn xuống đất.

Con người chỉ thoáng cảm thấy trên da mặt mình hơi thở hôi thối của con thú. Phát khùng, nó chồm lên con chó.

Người con gái thét lên một tiếng thất thanh, từ trong cuống họng. Nhưng người con trai không biết sợ nữa, không suy xét, không nghĩ ngợi. Chàng chỉ cảm thấy màn mù đỏ lừ trước mặt và vị máu mằn mặn trong miệng.

Vớ thanh củi cong nặng trịch, chàng đổ toàn thân, đè cả ngực, cả bụng lên lưng con báo, tay trái co quắp, khoan khoái đến man rợ, tóm lấy cái gáy mượt lông của nó quay ngược mõm lại và tay phải vung thanh củi giáng một đòn chí mạng vào giữa cái đầu dẹt của cong thú. Và bồi thêm đòn nữa, toàn thân bỗng run lên vì sảng khoái.

Đúng khoảnh khắc ấy hai quầng lửa vụt loé lên ngay trên đầu chàng.

Con báo bỗng bủn rủn toàn thân, tuồn thoát khỏi thân hình con người, loạng choạng gục cái đầu đui mù xuống sát đất, lủi xa đống lửa rồi mất hút vào rừng đêm mịt mù..
Người con trai vùng dậy, chực vọt theo con thú, nhưng chàng bỗng khựng lại, ném ánh mắt về phía người con gái.

Mặt trắng bệch, nằng đứng cạnh đống lửa, gần như sắp ngất đi, khẩu súng trong tay, hai nòng vẫn còn đang toả khói. Đến lúc ấy chàng mới cảm thấy răng mình cũng nhe ra, mới nhìn thấy toàn thân mình đẫm máu. Nhắm nghiền mắt lại, chàng duỗi các ngón tai ra, ném thanh củi vào đống lửa.
- Em tha lỗi cho anh – chàng nói, giọng khàn khàn – Anh không kìm được mình nữa khi nghe thấy tiếng kêu thất thanh của em. Anh như người phát khùng.

- Nó cắn anh bị thương ư ?

- Không, đây chắc là máu của nó.

- Nếu như anh không nằm đè lên nó thì có lẽ em đã giết chết nó rồi. Trời, suýt thì em bắn đúng lúc ấy. – ôi !

- Dễ hiểu thôi, - chàng làm ra vẻ cứng rắn. - Ở địa vị em , bất lỳ ai cũng sẽ phải lung túng như thế thôi. Em xem con chó có sao không.

Người con gái cúi xuống xem xét con chó đang run rẩy nằm liếm các vết thương.

- Bị cào toạc da. Khá nhiều vết, nhưng theo em không nguy hiểm. Trên vai có vết răng cắn. Cao hơn chút nữa thì trúng động mạch cổ. Thế thì chỉ có chết.

- Vết thương ở vai phải rửa thuốc tím cho nó. Các chỗ khác nó tự liếm lấy.
Họ cử động như hai cái máy, như trong sương mù, như trong cơn mơ. Chỉ đến lúc tin chắc không còn gì đe doạ sinh mệnh con chó , sinh mệnh của bản thân họ, họ mới ngồi xuống cạnh đống lửa, cả hai cùng như ngây dại.

- Khủng khiếp quá….Ôi lạy chúa, khủng khiếp quá ! Bốn con thú. Có lẽ em sẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên nếu như chúng mình bắt đầu cắn xé nó.

Trong thinh không vang lên tiếng nức nở nghẹn ngào. Chỉ đến lúc này người con trai mới run bắn lên. Chàng ôm chặt lấy nàng, ghì chặt vào lòng mình, hãi hùng thầm nghĩ đến kết cục bi đát có thể xảy ra. Từ trong lồng ngực chàng thoát ra những tiếng thở hổn hển.

- Khi ấy có lẽ em sẽ không bao giờ tha thứ cho mình…. về những ý nghĩ…Và tất cả mọi điều.

- Đừng em… Đừng nghĩ như thế…. Đừng nghĩ như thế…

Đêm lắng xuống.

…Con báo không thể quay lại nữa, nó đã bỏ đi, vào rừng thẳm, vào nơi hoang vắng, thật xa con người.

XV. KINH XÁM HỐI CHO PHÚT BIỆT LY.

Một tuần sau, xe của khu bảo tồn chở họ theo đường rừng ra bến: anh, Gragina và Amur. Sauk hi biết chuyện cạnh lều săn đêm ấy, Giám đốc Đênhixốp tặng Buđrix con Amur.

- Biết làm sao được ? Không thể bảo là tôi không tiếc. Một con chó cừ đâý. Nhưng từ nay anh với nó cũng như thể anh em kết nghĩa rôì. Nó đã tìm được người bạn ở anh, anh - ở nó. Những chuyện như vậy quên sao được. Anh cứ mang nó theo. Biết đâu, có khi anh còn ở lại đây nữa. Khi ấy ta lại xum họp. Nếu được như thế thì tuyệt vô cùng.

Tôi xin anh con Amur – Buđrix bối rối đáp.. – Nhưng chuyện khác thì tôi….chúng tôi còn phải xem thế nào đã. Bây gìơ tôi đi Vlađivôxtốc. Cô ấy tạm ở lại đây ba hôm.

- Để làm gì ? Đênhixốp hỏi, vẻ không đồng tình...

Anh nhìn Gragina chăm chú, dò xét, những nếp nhăn đuôi mắt hình như trở nên nhiều hơn.

- Em chưa xong việc, cô giải thích.

- Có gì đâu, - giám đốc Đênhixôp nghiêm giọng- Làm sao mà cắt cho hết mọi cái đuôi ở đây được. Việc ở đây phải thế kỷ chưa chắc đã làm xong. Hai bạn phải cùng đi. – Anh ta thở dài. – Nhưng thôi tuỳ hai bạn. Tôi thì tôi không làm như vậy. Chuyện tương lai thì sao?

- Tôi sẽ chuẩn bị trước mọi việc, - Buđrix nói. – Chúng tôi sẽ đến cơ quan cô ấy thanh toán công việc. Sau đó về quê tôi bàn bạc với các cụ rồi quyết định…
Anh nhìn Gragina, cô nghe anh nói, nhưng hình như không nghe thấy gì. Chỉ có con mắt là vẫn nghiệm nghị, buồn rầu dõi theo môi anh mấp mấy, như thể muốn nghiên cứu kỹ chúng và toàn bộ gương mặt.

- Chẳng hiểu liệu tôi có nên bỏ việc cũ không. Tôi biết trước là sẽ to chuyện đấy. Nói chung như vậy cũng như phản bội bạn bè. Mà đâu phải chỉ với những người đang sống cho cam…

- Ý anh muốn nói đến đến anh Gienus ? – Cô hỏi.

Buđrix lặng lẽ cúi đầu.

- Em sẽ không hỏi gì, không ép buộc ai. – Cô mỉm cười nói nhỏ. – Em hiểu hết.

Lòng trắc ẩn bỗng nhói lên trong tim Buđrix khi anh thấy nụ cười ấy.

- Nếu em cứ cười như thế anh sẽ bỏ tất tật, thậm chí không rẽ về quê nữa. Anh nói. - Chuyện phản bội anh nói tầm bậy. Mỗi người là chủ vận mệnh mình. Nếu như không sớm mấy đi thì có lẽ chính anh Gienus sẽ nói với anh điều đó. Anh ấy là con người giàu lòng nhân hậu đến kỳ lạ. Ngày nay chẳng còn những người như vậy. Anh lại liếc nhìn gương mặt cô và nói tiếp với Đênhixốp: - Tôi e rằng chúng tôi sẽ sớm trở lại đây thật. Đồng chí tiếp nhận chứ ?

- Thì tôi đã nói rồi còn gì.

- Đồng chí giám đốc ngồi xổm xuống ôm đầu con chó vào hai long bàn tay, nhìn thẳng vào cặp mắt màu hạt sẻ ánh vàng.

- Amur. – Giám đốc nói với con chó. – Ngoan, nghe chưa Amur. Đừng nghĩ là tao phản chú mày nhé. Tao mới chỉ cho được mày miếng ăn. Người kia đã trả giá cho mày đắt hơn nhiều. Bằng cả sinh mạng cơ đấy. Hiểu chưa ? Lại đúng vào cái lúc sinh mạng ấy không phải là của riêng anh ta nữa. Cho nên chú mày phải thuỷ chung với anh ta. Nghe rõ chứ, Amur ? Anh ta sẽ thuỷ chung với chú mày, như từ ngày đầu đến nay. Sẽ cho chú mày miếng ăn, chốn ở, tình thương. Sẽ đối xử tốt, sẽ không đánh đập chú mày.

Ở miệng người khác nói ra, chắc nghe phải tức cười lắm. Nhưng đối với Đênhixốp thì khác. Buđrix đã biết quá rõ sự đối xử của giám đốc đối với mọi sinh vật. Hơn nữa….mi mắt chó run run. Con chó …khóc. Lần thứ hai trong đời, Buđrix chứng kiến cảnh tượng ấy, anh cũng sắp khóc rống lên mất !

- Đừng khóc nữa, Amur. Chú mày sao thế? Ở đây được cái gì nào ? Mưa rừng, thú dữ. Chú mày ưng những của ấy à? Anh ta sẽ đem chú mày đi săn. Chú mày sẽ được chết cái chết tự nhiên dưới mái nhà anh ta. Anh ta sẽ chẳng đánh thuốc mê chú mày đâu, anh ta chẳng phải hạng người như vậy. Tao sẽ đến thăm chú mày. Tạm biệt nhé, Amur !

Con chó liếm tay Đênhixốp. Liếm rất lâu. Sau đó nó lui ra ngồi xuốnh cạnh chân Buđrix.

- Anh Xêvêrin, - bỗng Gragina gần như là thét lên, - Anh đừng làm khổ em nữa ! Đủ rồi. Em không chịu nổi nữa đâu.

- Hẹn sớm gặp lại người anh em, - Đênhixốp nói. – Anh là một con người tốt bụng đấy.

- Anh cũng là… một con người rất tốt.

Họ ôm nhau hôn. Chiếc xe tải chuyển bánh. Đênhixốp e hèm, vẫy tay một cái rồi vào nhà.
Con chó ngồi trong cabin, cạnh bác tài. Nó nhìn thẳng trước mặt, như thể từ biệt nơi nó từng chạy rông, từ ngày còn là một chú cún ngốc nghếch.

Anh cùng Gragina đứng trong thùng xe, tì tay vào mui cabin.

- Có khi chúng mình sẽ trở lại đây thật, - Anh nói.- Theo anh đây là miền tốt đẹp nhất trên trái đất này.

- Đúng vậy. Đối với em, thời gian ở đây là sung sướng nhất đấy.

- Đối với anh cũng thế.

- Bên anh, lúc nào em cũng thấy hạnh phúc.

- Cả khi ở bên thác nước và rừng dây leo ?

- Cả khi ấy.

- Cả về sau, trong ngôi nhà của cặp vợ chồng nghiên cứu bướm ?

- Cả khi ấy.

- Thế hạnh phúc nhất ?

- Căn lều. Khi con báo xuất hiện. Rồi khi nó bỏ đi. Và mọi lúc. Cám ơn anh.

Lát sau, những mỏm đá, những khu rừng, những ngọn núi đã kết thúc. Xe chạy ven bờ biển. Hai dãy núi chạy lùi dần, đan vào nhau, rồi che khuất con đường độc đạo nhỏ hẹp dẫn vào lũng.

Bác tài phóng xe ven bờ, ngay trên bãi cát lèn, qua những vũng nước triều và kịp đưa họ đến nơi đúng lúc chiếc canô đi biển sơn trắng tên là “ngọc bích” đang cập bến.

- Vậy là hôm nào em ra ? Nói lần nữa cho anh yên tâm.

- Thứ bảy. Thôi nào, Amur.

Anh thấy con chó cắn gấu váy Gragina lôi xuống canô.

- Thế nếu không có canô ? Nhắc lại lần nữa đi.

- Thứ Tư, bằng canô của khu bảo tồn - đôi mắt cô cười qua ngấn nước long lanh.

- Chả nên mưa giữa ngày nắng ráo trời trong như thế này. Chỉ được nắng tươi thôi – Anh yêu cầu. - Thứ Tư nhất định sẽ bắt đầu một mùa hè vĩnh cửu chứ ?

- Thấy không. Amur. Cô ấy sẽ đến. Nhả gấu váy ra… Em hứa với hai thày trò này là sẽ đến đi.

Cô lẳng lặng gật đầu.

….Canô rúc hồi còi. Gragina nép người vào anh. Rồi vất vả rời ra.

- Thôi, anh đi nhé, đừng có buồn…Anh của em dũng cảm lắm cơ mà…Dám vật nhau với cả báo, - giọng cô nghẹn lại. Chẳng trò vớ vẩn nào có thể làm gì nổi anh. Dẫu là trò tồi tệ nhất.

Ôm đầu anh vào long bàn tay, không ngại ngùng trước hành khách trên boong và mấy người đàn bà dưới bến, cô hôn lên môi anh, da diết, đắm đuối.

Anh thấy cô vẫy cái khăn quàng, rồi cúi đầu đi lại phía ô tô. Phút ấy anh chỉ muốn nhảy xuống biển, bơi vào bờ.

Sau này anh hối tiếc một cách đau đớn là đã không làm như vậy.

Hình bóng mảnh mai trên bờ biến mất. Chiếc ô tô biến mất. Cuối cùng cả bến cảng cũng đã biến mất.

Bỗng một âm thanh lỳ lạ, hoang dã khiến Buđrix sửng sốt. Dướn toàn thân về phía bờ xa dần, con chó Amur rít lên đau đớn, thảm thương, thuyệt vọng như thể tiếng khóc than người đã chết.

Thứ bảy, Gragina không ra. Lang thang chờ cô ở bến. Buđrix chỉ biết được là “Ngọc Bích” ở Lũng Hổ ra Vrađivôxtốctừ hôm qua. Thứ sáu.

Anh rất buồn vì phải sống mấy ngày nữa thiếu cô, nhưng nói chung chấp nhận điều đó như một tất yếu : nàng không biết, ra nhỡ chuyến. Nàng sẽ ra vào thứ từ bằng ca nô của khu bảo tồn.

Thứ tư, anh dắt Amur, cùng Vaxin Páplốp ra bến chờ đón.

- Nhúc nhích tứ chi lênlên chút xíu, ông anh côn đồ, Vaxin giễu, không hề có ác ý – Con gái ông chủ quán đang chờ đợi chàng. Cô nàng mong mỏi bộ mặt xám nham nhở của chàng đến đỏ con mắt rồi đấy.

- Này cậu có câm họng đi không ?

- Đầu đội vòng nguyệt quế, mình đầy thương tích và vinh quang, nhưng than ôi, chàng chỉ khao khát một bó hoa đồng nội giản dị do chính nàng trao tay. Chỉ bó hoa đó thôi.

- Kìa, đã bảo…

- Tôi yêu thích thổ dân da đỏ và người Caraim. – Vaxin hét toáng phố.
Mấy người qua đường quay lại nhìn họ. Vaxin bước đi, mặt tỉnh bơ như mặt một bác gia trưởng đạo mạo. Cậu ta có điệu bộ và dáng đi của một huân tước thành viên thượng viện.

- Cả người da đen tôi cũng ưng lắm!

Một ông già tóc bạc phơ dừng lại, nhìn Buđrix, lắc đầu vẻ chê trách.

- Chà chà, thanh niên, cậu quấy quá đấy. Lại dắt cả chó nữa.

- Thuộc thế hệ đã đổ máu đấy – Vaxin thì thào – Có điều không rõ trong hàng ngũ quân Xêmiônốp, hay dưới trướng đích thân nam tước Unhecnơ. “ Chúng ta đã đánh tan quân cướp…”. Chú ý ! Chú ý! Thưa đồng bào Vlađivôxtốc thân mến ! Tiết mục xiếc độc nhất vô song ! Riêng gánh chúng tôi mới có. Đội báo giữa khán giả. Một - Buđrix - Một. Huy chương vàng của thủ lĩnh Abixini. Tức trái tim bị trinh phục của con gái ông ta.

- Thôi là Vaxin. Qúa quắt thế. Mình van cậu.

- Chiếc canô đã đỗ ở bến. Giám đốc Đênhixốp cùng hai công nhân đang bốc dỡ lên bờ những lồng với cũi gì đó.

- Chào hai bạn. Tôi rất mừng lại được gặp lại các bạn. Đây chắc là Vaxin Páplốp ? Cừ lắm. Bốc dỡ nốt cái hòm kia nữa là tôi xong việc. Giúp một tay nào. Nhưng sao chỉ có hai bạn. Thế Gragina đâu?

- Vậy ra cô ta…

- Thì đúng như hai bạn đã thoả thuận mà. “Ngọc Bích” ra sớm hơn một ngày. Sau anh có hai ngày. Tôi còn mừng là anh đỡ được một ngày chờ đợi.

- Chắc anh đùa dai thôi, anh Đênhixốp…

- Không, không đời nào ! Ai lại đùa những chuyện tày đình !

Buđrix tái mặt đi.

- Buổi hôn lễ tạm hoãn, - Vaxin vẫn tiếp tục châm chọc, theo thói quen, chưa hiểu rõ điều gì đã xảy ra.- Bó hoa cưới tuột rôi khỏi tay chàng rể sững sờ… - Nhưng chợt thấy sắc mặt Buđrix, cậu ta thốt lên “trời”: - Bạn thân mến…Có chuyện gì vậy ? Sao thế ? Tha lỗi cho mình nhé.

- Chẳng còn hiểu ra làm sao cả ! - Đênhixốp lẩm bẩm – Chính tôi chở ra bến. Chính tôi thuyết phục đứng chờ đến thứ tư nữa. Thế này là thế nào nhỉ ? Có chuyện gì nhỉ ?
Vaxin trấn tĩnh được trước tiên.

- Này các em- cậu ta gọi hai cô gái dạo chơi trên bến, - tặng hai em bó hoa này. Còn đi chơi thì để lần khác vậy nhé. Cứ gọi điện đến toà báo nổi tiếng “Hải Đăng” của viện Páplốp….Này Xêvêrin thân mến ! Chớ có vội chúi cái mũi Hi – la kinh điển xuống như vậy…. Anh Đênhixốp, cái đèn xanh taxi nhấp nháy kia kìa. Anh tóm ngay nó hộ tôi …. Xêva ôm cái gáy béo ú của chú bạn tứ chi này lôi lên ghế trước, mau !

Họ phóng taxi đến tất cả khách sạn trong thành phố, tất cả đồn cảnh sát. Hôm thứ sáu không xảy ra một vụ tai nạn giao thông nào. Hôm thứ sáu trong các khách sạn, đều có chỗ trống nhưng không một khách sạn nào có nữ công dân Acxailo Gragina tạm trú.

Vaxin phỏng đoán:

- Nếu cô bé không có người quen ở thành phố này thì có nghĩa là cô bé rời khỏi thành phố này ngay tối hôm ấy.

- Cô ấy đi rồi – Buđrix nói, giọng rầu rĩ.

- Tại sao ?

- Gragina không thể ngồi yên tại đây ngần ấy ngày một khi biết mình ở ngay cạnh, mình đang chờ đợi.

- Thì ra là không thể rồi. Vaxin phụ hoạ, giọng quá vững tin. Cô bé chịu sao nổi, điều đó quá rõ. Cô bé quê đâu, anh Đênhixốp ?

Đênhixốp bỗng đỏ mặt.

- Gía như biết trước thì khi cô ta trình giấy tờ ….Nhưng tôi nhớ hình như công tác ở Viện Khabacôpxcơ thì phải. Đúng rồi, ở đấy.

- Vậy thì – Vaxin đề nghị: - Đến bưu điện gửi ngay một bức điện về Viện. Nếu cô bé còn ở đấy thì bảo họ cố giữ chân cô lại dù phải hy sinh tính mạng họ. Bằng không họ sẽ phải trả giá bằng mạng sống thật đấy. Họ mà không giữ nổi cô bé lại thì chính tôi sẽ hỏi tội họ. Cả vốn lẫn lãi. Một ngày cũng không tha.

- Anh Buđrix này, - bỗng nhiên Đênhixốp lên tiếng, - Thế anh không nghĩ là có khi không đánh điện sẽ tốt hơn chăng ? Biết đâu bức điện ấy lại chẳng….làm tan nát cả cuộc đời cô ta ? ngộ nhỡ cô ta …. – Trông bộ mặt đồng chí giám đốc rất thiểu não - …cô ta có chồng rồi chẳng hạn…

- Cứ cho nó tan nát, - Vaxin rít qua kẽ răng, đáng đời lắm, một khi dám làm trò như vậy. Mà anh nói năng gì lạ vậy ? Anh bênh à ? Anh không thấy cha nội kia đang mất hết hồn khôn vía dại à? Tan nát càng tốt . May ra khi ấy anh chàng kia suy đi nghĩ lại và sẽ tha thứ cho cô ta. Đúng không nào ?

- Đừng chửi bới nữa, Vaxin – Buđrix nói. – Cũng đừng gắt gỏng với Đênhixốp làm gì. Gragina chưa có chồng.

- Anh thấy không: niềm tin thật thiêng liêng, - “cháu nội bà nô lệ” nổi cáu.

- Đấy không phải niềm tin. Mình biết đích xác mà. Nhưng dẫu không biết thì mình vẫn tin. Bởi không nói gì với tôi thì đó là một sự đê tiện ghê gớm quá. Nếu tôi biết trước thì điều xảy ra vẫn cứ sẽ xảy ra. Nhưng ít ra, tôi còn lường trước được mình sẽ gặp những khó khăn gì. Và sẽ có thể ngẩng cao đầu chờ đón chúng. Nếu sự thật như vậy thì cô ấy đã nói hết. Gragina không phải là người xảo trá…Ngay cả trường hợp tôi không hay biết gì.

Họ đánh điện về Kharacôpxcơ và phóng ra sân bay. Họ không ra ga xe lửa, bởi vô ích, ở đó người ta không đăng ký hành khách.

Ở sân bay họ được biết là hành khách Acsailo đã bay đi Kharacôpxcơ ngay hôm thứ sáu.

- Ngay trong ngày hôm ấy, cô ta đã có mặt ở đó, - Vaxin sập cửa taxi, nói - thứ bẩy - thứ hai - chủ nhật - thứ ba. Tôi đếm theo kiểu dân zigan…vì xúc động quá.

- Hôm nay thứ tư. – Buđrix nói - Gần một tuần trôi qua rồi. Mai có điện trả lời là nhanh. Cả thảy sáu ngày. Một tuần đệ đơn xin thôi việc. Phải mất hai tuần. Cũng có thể họ sẽ thả cô ấy ra sớm hơn.

Ở khách sạn, họ thuê một phòng tiếp giáp với phòng của Buđrix, thả về “đại bản doanh” một lô thực phẩm để không phải rời khỏi phòng một phút nào, ngồi lỳ đó đợi chuông điện thoại réo và điện tín gửi tới.

Tối hôm ấy họ uống khá say. Khi Vaxin lại bốc đồng bắt đầu mắng mỏ Gragina.
Buđrix không chịu được nữa.

- Thôi đi ! Cậu không được động đến cô ấy.

- Chẳng hiểu cái của nợ gì chui vào đầu con bé nữa ? Vaxin cáu – Đánh đùng một cái làm cho người ta chết đứng được. Báo trước một câu mất gì.

- Chúng ta chưa biết rõ điều gì. Buđrix phản đối. - Vậy thì chúng ta không có quyền trách cứ. Cậu chưa quen biết Gragina, chưa nhìn thấy nữa. Còn mình, mình hiểu Gragina như chính bản thân mình. Và mình tin cô ấy như tin chính bản thân….. Làm sao chúng ta biết hết cuộc đời cô ấy được ? Gragina hành động như vậy tức là có lý do không thể bỏ qua, tức là cô ấy không có quyền làm khác đi. Cậu hiểu không, cô ấy không thể nói dối. Biết đâu, ở lại đây với chúng chúng mình là dối trá. Vì vậy bản thân mình sẽ không vội trách và cũng không cho phép một ai chê trách người con gái ấy.
Vaxin nhìn thẳng vào khoé mắt trong sáng trở lại của bạn và phẩy tay.

- Anh định làm gì nếu như cô ấy bỏ đi ? Đênhixốp dè dặt hỏi.

- Gragina có địa chỉ của tôi. Tôi sẽ không thay đổi địa chỉ ấy. Đó sẽ là đầu mối duy nhất. Tôi sẽ đợi. Nếu Gragina thấy buồn khổ, nhất định cô ấy sẽ gọi điện, viết thư, hay tự đến.

- Nếu anh không chờ nổi nữa thì sao ?

- Nổi. Tôi cùng Amur sẽ chờ được. Gragina sẽ không lừa chúng tôi. Tôi sẽ chờ nổi. Bạn thân mến, bạn quên là tôi yêu Gragina. Và cô ấy yêu tôi. Điều này, tôi tin chắc. Không một ai kể cả con người xảo quyệt nhất có thể dối trá giỏi đến thế được. Tôi vẫn nhìn thẳng vào mắt Gragina mà. Hiện giờ, cô ấy cũng đang rất khổ tâm. Chính vì vậy mà cô ấy mới hành động như vậy. Tức bỏ chạy. Nhưng trốn chạy mãi sao được. Gragina sẽ đến và bao giờ cũng sẽ tìm được ở nơi tôi: mái nhà, tổ ấm, thậm chí cả con chó này nữa, và cô ấy sẽ sung sướng, thanh thản sau chặng đường dài mệt mỏi, rét mướt. Tôi sẽ chờ nổi. Tôi không thiết ai nữa, ngoài Gragina.

Vaxin nốc cạn cốc rượu và bỗng oà khóc.

- Chà quân chó chết ! Chà quân dã man ! Mình đau khổ chưa đủ, lại còn dày vò người khác nữa chứ ! Cậu đừng tưởng tớ say, tớ đang tức anh ách đây. - Cậu ta thổn thức như đứa con nít. Rồi bỗng nổi khùng : - Bây giờ thì tớ biết tớ phải làm gì nếu con bé đã chuồn khỏi Khabarôpxcơ ! Nếu nó đi máy bay thì rõ là về hướng nào. Nếu đi tàu hoả thì tớ sẽ tống cả điện lên tàu. Từng ngày trong suốt chặng đường bảy ngày đêm. Chẳng hạn, đi đi Môngôtra, đi Prixcoovaia, đi Lêchutxcơ, đi Nôvôxibirxcơ, Xveclốp, Jarôxlap. Bắt bọn đưa điện phải gào lên: “ Nữa công dân EN, bạn chị đang hấp hối. Trở về ngay !

- Những bức điện như vậy, không có giấy chứng nhận họ không đánh đi đâu. Giám đốc Đênhixốp buồn rầu nói.

- Anh tưởng tôi chịu bó tay à ! Tôi sẽ đến gặp ngài ngự y của chúng tôi, sẽ lắc quan ngài cho đến tận lúc bốn vía ngài vọt ra khỏi cái đầu hói. Đừng buồn nữa, Buđrix. Chúng tôi sẽ không để cho câu chuyện kết thúc như vậy. Cụ nội tôi, anh bạn ạ…

May sao, chưa đến nỗi phải đi lắc ngự y. Sáng hôm sau, Khabarôxcơ trả lời rằng: đồng chí cán bộ nghiên cứu Acxailo Gragina Janôpna đã xin thôi việc gấp vì lý do gia đình và hôm thứ hai đã bay đi Maxcơva.

Ngay chiều hôm đó, sếp trả lời rằng trong ba ngày qua không có một phụ nữ nào họ Acxailô bay đi khỏi thủ đô từ bất kỳ sân bay nào, rằng ông sẽ tiếp tục điện hỏi các sân bay trong suốt hai tuần nữa.

Chẳng còn gì để chờ đợi ở đây nữa. Cũng chẳng có việc gì phải vội. Bởi vậy hai ngày sau Đênhixốp và Vaxin tiễn Buđrix ra tàu. Amur ngồi toa chở hàng.

Trước giờ khởi hành, họ ngồi ở đúng cái bến cảng ấy. Mọi chuyện đã nói hết, đã hẹn hò đủ. Mỗi ngươì đều hiểu mình đã thêm hai người bạn. Trung thành. Chân chính. Suốt đời. Những người bạn không bao giờ quên, bỏ rơi, phản bội, cho dù ít dịp gặp nhau.
Nhờ vậy mà trong lòng thấy nhẹ nhõm hơn. Nhờ vậy mà lòng không đến nỗi quặn đau khi rõi theo những ánh đèn tàu rời vũng Sừng Vàng ra khơi đi về đâu.

Tàu khởi hành vào 0.10. Họ tiễn Buđrix đến tận buồng, hôn anh từ biệt, Bỗng Vaxin làm tất cả phải ngạc nhiên. Cậu ta thò tay vào túi lôi ra một vận gói giấy cẩn thận.

- Này, cậu cầm lấy.

Đó là tấm ảnh cũ kỹ thường treo trên tường. Cô bé tự chụp lấy. Ảnh chụp một người phụ nữ vận đồ đen có gương mặt rất quen và một người đàn ông cao lớn, đầu bạc trắng, nhưng đôi mắt tươi trẻ. Người đàn ông mặc quân phục đại tá.

Buđrix chăm chú ngắm gương mặt người đàn ông thấy hao hao giống Vaxin.

- Họ đấy à?

- Chính họ, - Vaxin đáp. - Cứ cầm lấy, người anh hem. Làm bằng chứng rằng: lòng thuỷ chung đã từng có, hiện có và sẽ có mãi mãi. Rằng ở đời luôn có những người sẵn sàng trả giá cho nó. Cậu cứ yên tâm. Mọi sự sẽ ổn.

- Nhưng đây không phải bản sao cơ mà !

- Cậu sẽ trả lại mình, - Vaxin nói giản dị - Tạm thời, cậu cứ giữ. Sau này, khi cậu đã tìm được, khi cô ta đã trở lại, thì cậu trả lại mình. Cũng chóng thôi. Vậy là cầm bằng … Và cùng nhau trở lại đây nhé. Với mình và Đênhixốp.

Buđrix bỗng nghẹn ngào:

- Mình sẽ không bao giờ quên. Cảm ơn, Mình cầm tạm. Mình sẽ trở lại.

Hai người bạn rời toa. Tàu nhẹ nhàng chuyển bánh, Vaxin đi theo, bước mỗi lúc một nhanh hơn.

- Vững tinh thần nhé, đồ côn đồ !Hếch mũi lên ! …Tổ quốc không cần lũ cá voi mau nước mắt….Gửi lời chào các học giả tiến bộ.

Rồi nói với từ xa:

- Cái ảnh, phải mau trả lại đấy ! Cái ảnh !

Buđrix đứng nhìn ánh đèn thành phố, nơi những người bạn anh ở lại, nơi anh đã tìm được và đã mất.
Suốt những ngày sau, anh cũng thường đứng cạnh cửa ngoài hành lang. Đến thăm và cho Amur ăn. Nhờ có những phút mừng quýnh của con chó, nhờ có lòng trung thành đơn sơ và sâu sắc của nó, đường dài cũng dễ chịu đựng hơn. Bên anh luôn có một tâm hồn sống động, người làm chứng, người bạn nhớ rõ căn lều, thác nước giữa rừng dây leo và nỗi cay đắng của giờ phút biệt ly trên bến. Một người bạn đã linh cảm trước, nên đã cắn váy nàng kéo xuống ca-nô, đã rên rỉ khi khuất bóng nàng.

Ở Vlađivôxtôc cây cối xanh rì. Đến gần Khabarôpxcơ, lúc bình minh, núi trông như những bó hoa: vàng. đỏ rực, xanh biếc, vàng chanh, vàng da cam. Thành phố nàng từng sống, từng đi qua những đường hầm này. Từng tắm ở dòng sông này. Từng đi qua những ngôi nhà kia. Suýt thì anh nhảy xuống tàu, phải cố gắng lắm anh mới thuyết phục được mình rằng giờ đây, vắng nàng, thành phố chẳng còn gì hấp dẫn, rằng xuống tàu thật vô ích.

Sau đó, đoàn tàu chạy giữa ranh giới mùa thu và mùa đông. Đến gần Gôngra, các ngọn tuyết tùng đã lác đác phủ tuyết trắng. Môngôtra nằm im lìm dưới mưa thu lặng lẽ….Ở Mariinxkơ, rải rác đôi gốc bạch dương còn vàng rực….Đến gần Nôvôxibirxcơ tuyết đổ xuống dày đặc.

Mùa đông như thể chơi trò ú tim với đoàn tàu.

Anh đều đặn cho Amur ăn no và ngon, dắt đi dạo ở các ga. Bản thân anh hầu như không ăn gì.

Và ở mỗi ga lớ, một bức điện đã chờ sẵn. Nội dung hoàn toàn như nhau: “Không có”, “không có”, “không có”.

Ở vùng núi Uran, chỗ cột mốc “Châu Á – Châu Âu”, rừng bạch dương lại vàng rực như lửa. Nhưng càng gần Matxcơva, bạch dương càng xanh tươi trở lại. Mùa đông đã thả đoàn tàu ra khỏi nanh vuốt của nó.

Anh đã suy nghĩ nhiều trong mấy ngày ấy. Dần dần mơ hồ và thắc mắc nhường chỗ cho sự sáng tỏ. Anh có cảm tưởng rằng anh đã hiểu ra nguyên do của mọi sự đã xảy ra. Anh hiểu ra cả. Và đã tha thứ. Tuy nhiên không thể vì thế mà anh đỡ đau khổ hơn. Anh sẵn sàng đánh đổi mọi thứ trên đời này ngay lúc này để có nàng ở bên cạnh mình, để có thể đêm đêm cùng ngủ chung một căn phòng trên toa tàu này, ngày ngày cùng đứng bên cửa sổ hành lang, ngồi cùng một bàn ở toa nhà ăn.

Với một cảm giác đau xót về sự tổn thất không bùi đắp, anh hồi tưởng rừng dây leo tràn ngập ánh nắng, những chùm nho xanh đen, bóng tối như mực trong căn lều, làn môi nàng, ngực nàng, tiếng chân báo rình mò trong đêm đen.

Thực may mắn xiết bao là có con báo !

Những cơn ác mộng không trở lại dày vò anh nữa. Có lẽ chính nàng, chính tình yêu đã chữa anh khỏi bệnh. Ấy thế nhưng anh lại không thấy mừng. Chẳng thà cứ tái diễn những cơn ác mộng, lại giáp mặt con quái vật da lốm đốm nọ, nhưng cùng với chúng, có nàng trở lại !

- Anh không thể trách em. Nhưng vì sao, vì sao em đã làm như vậy ?

XVI. KHÚC HÁT CỦA THUỲ DƯƠNG NGUYÊN THUỶ

Năm ấy, mùa đông đến muộn. Chuyến tàu nhanh xuyên Xibir chạy vượt lên trước mùa đông đến hai tháng. Cây cối đã trút hết lá, bùn lầy trên các nẻo đường đã khô se, nhưng tuyết vẫn chưa rơi. Đất công viên xám ngoét, nhà cửa xám ngoét, phố xá xám ngoét. Vì tuyết không rơi nên tưởng đâu như lại băng giá hơn.

Anh trở lại nếp sống bình thường. Sáng sáng đi làm. Anh làm việc nhiều và tốt. Sau đó, về nhà, dạo chơi chừng một tiếng đồng hồ với con chó. Sau đó, cho đến tận tối không đi đâu nữa. Khi bạn bè hay sếp đến, anh đón tiếp vui vẻ niềm nở, nhưng không đến thăm ai, không đi câu lạc bộ, không ra hiệu cà – phê.

Thoạt tiên bạn bè lo lắng, nhất là sếp, đứng ngồi không yên. Nhưng anh cư xử bình thường, nên dần dà họ cũng lây lan tâm trạng của anh, cùng anh chờ đợi.

Bản thân anh không cho rằng nếp sống ấy của anh là một sự quên mình. Chẳng qua là phòng khi người ta bất ngờ mang điện báo đến, hay chính nàng sẽ bấm chuông gọi cửa, bất kỳ giây phút nào.

Anh đã điện hỏi khắp nơi, nhưng đều vô hiệu. Vả lại anh không hy vọng lắm vào những bức điện ấy. Một lần, có anh bạn nhà văn đến chơi, anh có kể đôi điều với anh ta, những điều cốt yếu thôi, không phải tất cả. Anh bạn nhà văn bất ngờ đề nghị:

- Này, hay mình viết cái chuyện ấy.

- Để làm gì ?

- Mình sẽ viết hoàn toàn sự thật. Đúng như những việc đã xảy ra.

- Cậu không viết được đâu.

- Mình biết. Nhưng ẩn sau mỗi dòng của mình, hồi ức sẽ dựng lên trước mắt cô ấy. Nếu cô ấy đọc tới, nếu hiểu ra rằng cậu đang chờ đợi, rằng cô ấy đã làm một điều ngu ngốc, thì chẳnng lẽ cô ấy không trở về ?

- Với một điều kiện: chỉ viết sự thật hoàn toàn - Anh yêu cầu.

- Cậu cứ tin mình, nhất định cô ấy sẽ trở về.

- Cho dù sẽ không trở về, mình vẫn cứ đợi. Mình có còn gì quý giá hơn đâu. Mình chỉ còn có Gragina, mình không thiết gì hơn nữa.

Đâu khoảng cuối tháng mười một, đi làm về, anh thấy trong hòm thư một phong bì dày màu vàng. Tuy chưa nhận rõ nét chữ, tim anh vẫn thót lên: thư nàng.

“Anh yêu dấu, thân thương, người đầu tiên và cuối cùng của em.

Vị quan toà nhân hậu và người duy nhất em yêu !

Đừng xem xét phong bì lâu thế, nó chẳng cho anh biết được điều gì đâu. Vì thư bỏ ở một nơi xa chỗ em ở. Anh tha lỗi cho em vì sự tàn nhẫn, vì nỗi đau em đã gây ra cho anh. Qua lá thư này, anh sẽ hiểu rằng đó không phảu là sự bội bạc, rằng không bao giờ em đánh đổi anh lấy bất kỳ ai khác, rằng em xin được tha thứ không phải vì đã phản bội mà chỉ vì đã làm anh đau đớn. Chính vì lẽ ấy mà em vẫn chưa thôi dằn vặt mình, chưa thôi nguyền rủa mình không thương tiếc- anh hãy tin em đi. Bởi vì anh thì anh sẽ không bao giờ làm em phải đau đớn, có chăng chỉ vì vô ý. Chính vì vậy anh là một thánh nhân, còn em – em chỉ là một con người bình thường, nhỏ bé.

Trái tim em tan nát mỗi khi nghĩ đến hai tháng qua anh đã đau khổ nhường nào vì không hay biết tí gì, không hiểu sao bỗng dưng bị bỏ rơi, như thể bị em bội bạc. Em xin anh hãy tin : hai tháng ấy em chẳng có gì khác ngoài nước mắt. Làm sao lúc ấy em có thể viết thư cho anh được ? Bởi viết – cũng tức là nhìn thẳng vào mắt anh. Nhưng em nhìn vào đôi mắt ấy sao được ? em biết ngước nhìn anh thế nào, bằng đôi mắt của loài chó ư? Vả lại loài chó cũng có những con như Amur

Đêm hôm nay em mới dám cầm bút viết thư cho anh, bởi vì sau khi biết mọi chuyện, chắc anh sẽ tha thứ cho em nhiều điều.

Em sẽ có con. Bây giờ đích xác rồi. Em cảm ơn anh vì nó, vì những ngày rực rỡ nắng vàng duy nhất trong đời em, vì tình yêu, vì lòng tin của anh mà em đã buộc phải phũ phàng mặc dù không muốn.

Lần đầu tiên trong suốt thời gian qua, hôm nay em mới mỉm cười. Dẫu vẫn còn qua nước mắt. Như ngày ấy, lúc Amur cắn gấu váy lôi em xuống thuyền. Sao anh quát gọi nó ? Biết đâu, biết đâu em đã không đừng được nữa, đã bước xuống thuyền, dẫu biết sau này sẽ không có hạnh phúc, dẫu biết sau này sẽ mang bất hanh đến cho anh.
Nhưng từ nay, em hứa với anh là em sẽ không khóc nữa đâu. Vì nó, nó phải khoẻ mạnh. Nó phải trở thành một chàng trai như anh: dũng mạnh, thông minh, nhân hậu, đẹp nhất thế gian này.

Nhờ có nó mà giờ đây em không còn cho rằng mọi sự đã xảy ra thật vô ích. Rằng lẽ ra em không nên đến với anh. Không, em lại nói láo rồi ! Bởi vì dẫu không có nó thì em sẽ vẫn không hề hối tiếc về chuyện đã xảy ra. Kể cả cái đêm con báo cứ lởn vởn rình mò, khiến anh phải vào ngủ trong lều. (Trời ! Từ lâu, anh đã hấp dẫn em ghê gớm !) Kể cả về cái điều khủng khiếp mà anh đã mơ thấy và đã khiến em tự đến với anh. Kể cả về cây nhâm sâm, về rừng dây leo, em cũng không hề ân hận. Em không ân hận điều gì. Nhờ tất cả những điều ấy mà em mới được biết anh. Sẽ không bao giờ có người tốt hơn. Sẽ không bao giờ có một người nào khác. Bởi thật điên rồ : sau con báo rừng lại đi chọn con mèo xó bếp làm kẻ chứng giám.

Đấy, em lại nói láo rồi. Hoàn toàn không phải vì cơn ác mộng nọ, không phải em muốn an ủi anh. Chính em đã đi tìm sự an ủi. Em đã không chịu đựng nổi nữa. Em đã đến với anh, chứa chan niềm hân hoan và thanh thản, với cảm giác về một hạnh phúc lớn lao. Vả lại, có người con gái nào có thể xúc cảm khác khi ở bên cạnh một con người như anh !
Anh thân yêu ! Sao giờ đây em chỉ muốn được ngồi cạnh chân anh, ngả đầu lên gối anh, hôn đôi tay mạnh mẽ của anh, không cưỡng lại sự vuốt ve của chúng ! Em đau buồn biết bao vì không bao giờ được như vậy nữa. Em sẽ cố giải thích để anh hiểu lý do vì sao. Anh hãy cố hiểu ra và tha thứ cho em, một đứa con gái ngốc nghếch yêu anh hơn tất cả mọi thứ trên đời. Dẫu em vẫn chỉ là một người đàn bà. Anh đừng nghĩ về em tốt hơn hay xấu hơn con người thực ở em.

Em lo sợ mà. Anh có nhớ lúc ở giữa rừng già, dây leo chằng chịt trên đầu hai đứa mình không ? Lúc ấy em đã muốn anh mãi mãi nghĩ về em, em đã mong điều ấy không bao giờ đi qua. Và em đã run lên khi chợt nghĩ rằng điều ấy sẽ qua đi, mà em thì có lẽ sẽ không thể chịu đựng nổi mất mát ấy. Em biết ở đời mọi sự rồi đều kết thúc, sự bất tử chỉ tồn tại trong hồi ức. Vâng, đúng vậy, em dày vò anh, em là đồ vô tích sự, và anh cần sự bất tử như vậy để làm gì ? Anh cần làm gì những hồi ức về em ? Và cả việc từ nay anh sẽ mong chờ cho đến chọn đời - cả điều đó nữa phỏng cần gì cho anh ? ! Nhưng trên trái đất này, tình yêu chết đi ngày ngày, người đời thờ ơ bước qua những nấm mồ đã một thời thân thương. Em thì em không thể như vậy. Anh hãy tha lỗi cho em. Bởi nếu điều ấy xảy ra với em, thì em sẽ không sống thêm nổi một phút sau đó.

Anh là người đàn ông đầu tiên của em. Và cũng là người cuối cùng. Em đã quyết định tất cả ngay sau khoảng khắc đầu tiên gần gũi với anh. Và cả khi hai đứa mình ngồi bên gốc nhân sâm. Thiếu mưa em không thể sống nổi. Chính bởi vậy em đã tự đến với anh. Và bởi vì em muốn anh được hạnh phúc, bởi vì em luôn nghĩ về anh, bởi vì không thể bỏ mặc anh chết khát mà không sống từ nguồn em. Nhưng cũng chính bởi tất cả những điều đó mà em đã tự bỏ đi. Em không muốn phải mất anh.

Anh thân yêu, đừng ngạc nhiên nữa ! Đã từng có kẻ tự sát trong đêm trước ngày đấu súng. Anh cứ cho là em đã làm đúng như vậy. Nhưng không phải vì em sợ chết. Sợ chết chính mới là ngu ngốc. Điều em lo sợ hơn cả là cái chết lại do chính tự tay anh mang đến cho em.

Nhưng mặc dù vậy, em đã do dự mãi. Phút ly biệt cuối cùng em cũng còn suýt yếu mềm. Thậm chí, do động tác vô tình của một con chó. Nói chi đến trường hợp nếu như chính anh cầm lấy tay em ! May sao !.... đau đớn sao ! - điều đó đã không xẩy ra. Phút chia tay anh bất ngờ cho em thêm nghị lực thưc hiện dự định của mình. Em đã thấy được điều sau này có thể giết chết mối tình của hai đứa mình và cũng là giết luôn cả em.

Hai đứa mình hoàn toàn khác nhau . Em biết làm gì ở đó ? Anh sẽ làm gì ở đây ? Anh và em khác nhau về mọi mặt, trừ tình yêu của chúng ta. Anh có công việc của anh, của riêng anh. Mà em không hiểu nổi, em có cây cỏ, hoa bướm của em. Em biết hiện thời anh không cho là như vậy, anh đang mù quáng, anh xông thẳng tới, lao đầu vào. Anh đang tuyệt vọng, cũng như em. Nhưng em nhìn thấy trước: sẽ phải có một người hy sinh và người đó sẽ nuối tiếc thiên đường mình đã mất.

Anh đã có lần nhắc tới chuyện phản bội bạn bè, “mà đâu phải chỉ đối với những người đang sống cho cam”. Anh có nhắc đến anh Gientin mà…Em đã hiểu ra rằng ngay cả trong tiềm thức anh cũng không tha thứ cho mình điều anh gọi là “ phản bội”. Cho nên sớm muộn rồi tình yêu của anh cũng sẽ chết – chính mối tình sâu sắc, lớn lao nhất mà em từng có và vẫn sẽ có mãi mãi. Mối tình duy nhất.

Em không muốn điều đó. Thà cứ để đọng lại vĩnh viễn hồi ức cao cả duy nhất về phút sống rực rỡ, - duy nhất, bởi xin thề với anh và em sẽ không bao giờ có nữa.

Rồi mai sau, trong ngày những ngày cuối đời, em sẽ hồi tưởng tiếng suối reo, căn lều dưới bóng tuyết tùng cao vút, bóng dương thấp thoáng của thuỳ dương nguyên thuỷ. Em sẽ hồi tưởng khi thì con người man rợ tay vung thanh củi đỏ rực, lúc thì ông Adam bên dòng thác lúc là người tình dịu hiền với những cái hôn ngây ngất muốn chết được, lúc lại là vị thần lực lưỡng rám nắng tung em suýt đến tận vầng mặt trời. Muôn vẻ muôn hình, nhưng luôn luôn tươi trẻ.

Tức là anh…là anh…là anh…

Anh đã trở lại khoẻ mạnh. Đối với em thế là đủ. Anh hiểu cho em. Tha thứ cho em. Và đừng tìm kiếm em nữa”.



Đêm ấy, anh nằm suy nghĩ miên man. Phải rồi, anh cũng đã nghĩ đến lập luận tương tự trong mấy ngày đi tàu. Anh với nàng suy nghĩ giống nhau - điều đó thật hay, bởi vì không ý nào trong thư làm anh phải ngạc nhiên. Nghĩa là, chưa phải tất cả đã mất đi.
Bức thư không gieo rắc vào lòng anh nỗi tuyệt vọng. Ngược lại, nó làm nảy sinh niềm hy vọng. Điều chủ yếu là nàng vẫn yêu anh. Nàng chưa biết rõ tình yêu của anh đấy thôi. Chưa biết là trên đời này, điều anh sợ nhất là tình yêu của nàng rồi sẽ chết, chính nàng rồi sẽ thờ ơ bước qua nấm mồ đã một thời thân thương. Nàng chưa biết rằng hai người nặng tình như nhau, rằng họ chỉ còn truyền cho nhau niềm tin vào tình yêu, rồi sau đó thận trọng, nâng niu mang nó đi suốt cuộc đời.
Em là thuỳ dương nguyên thuỷ, em là sự sống. Vậy cớ sao em nghi ngại hạnh phúc ? Cớ sao em bỗng nghi ngờ chính sự sống ? Hay là quả đã truyền sang anh tất cả tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống, tất cả niềm tin vào cuộc sống ? Không ăn chỉ vì tình yêu cũng có thể chết. Không sống … Phải rồi, anh qủa đã trở nên khoẻ mạnh hơn em. Bởi chính em đã truyền cho anh sức mạnh ấy. Vậy thì cứ để anh ấp ủ mối tình này của anh, không cho nó chết. Ấp ủ trong đôi tay mạnh mẽ này. Anh sẽ không làm nó tan vỡ. Anh sẽ không để nó chết đi trong trái tim anh, và cũng không cho phép nó chết đi trong trái tim em. Anh nhất quyết không để xảy ra điều ấy - bằng hiểu biết uyên thâm, bằng nhẫn nại vô tận, bằng sức mạnh của tình yêu và cuối cùng… bằng cả bạo lực nữa.

Em đã quên đêm ấy, quên con báo, quên con chó trắng tên Amur. Quên cả điều quan trọng nhất. Tức quên mình.

Trong quãng đời trước đây, anh đã làm tất cả những gì có thể làm. Anh đã vượt lên những điều đã làm được. Từ nay, anh có thể làm được những điều to lớn hơn. Và anh muốn sống bằng những điều to lớn cần làm ấy.

Bám rễ vào bến bờ lởm chởm đá, còn hoang dã của cuộc đời mà ăn sâu vào lòng đất - một cách thông thái, kiên quyết và âu yếm. Cày vỡ đất cho tương lai.

Giống như họ. Như những con người vất vả kiếm miếng ăn nơi rừng hoang heo hút. những vẫn không hề mất đi lòng nhân mà còn làm tăng nó lên. Như những người có đủ lòng nhân cho tất cả. Như Đênhixốp, như Vaxin, như em yêu dấu của anh.

Và như cả những cây tuyết tùng, như những dây nho leo và cây hoa bia Bêlôruxia, như những con hoẵng kêu đêm đêm, như những con hươu rừng cấm Bêlôvêgiơ
Và như thuỳ dương nguyên thuỷ.

Anh đã kết thúc một chu kỳ, và anh không còn quan tâm đến điều từ trước đến giờ anh sống với những gì. Con người phải luôn đổi mới, bằng không anh ta sẽ chết đối với mọi người.

Tình yêu duy nhất đã đến, đã ban cho anh. Và tình yêu duy nhất ấy cần phải bảo vệ dẫu có phải trả giá bằng sinh mạng.

Anh thấy trước mắt những dây leo, hiền lành như trong giấc mơ trong sáng, thấy những bãi cỏ Miscan bằng bạc mờ ảo ánh trăng xanh, những bức rèm muôn màu bằng lá nho leo, thấy bầy nai mắt đen láy, những đàn bướm sặc sỡ bay lượn trên các đoá hoa, thấy thân cây nhân sâm mọc đâu đó dành riêng cho anh với nàng, phòng khi tình yêu của họ sẽ chết.

Bậy nào ! Cứ để nhân sâm mọc cho những người khác.

Anh thấy cả nàng nữa. Nàng đang đi đến với anh, hai tay nhẹ nhàng gạt những cành dẻ, nàng bơi đi giữ biển dương xỉ chan hoà ánh nắng và dang hai tay đón anh. Sau đó hai cánh tay ấy khẽ đặt lên vai anh, rồi nằm yên ở đó mãi mãi.

Khi anh mở choàng đôi mắt thao thức thâu đêm thì trong phòng lờ mờ sáng. Anh cảm thấy như thể mình tiếp tục mơ. Một ánh phản chiếu trăng trắng hắt lên trần. Anh đứng dậy bước lại bên cửa sổ. Ngoài trời tuyết phủ trắng các mái nhà, trắng cây cối. Rút cục, tuyết cũng đuổi kịp anh. Đôi ánh lửa hiếm hoi lấp lánh trên những đống tuyết dày. Cảnh vật trông như một ngày mới vào hội, tươi vui, trong sáng.

Anh đứng bên cửa hồi lâu. Hơi ấm từ bình sưởi nước phả vào chân thật là dễ chịu.

Amur cựa mình, làu ngàu trong mơ. Nó nằm ngay cạnh chân anh. Anh vuốt ve con chó.

- Tuyết rơi rồi đấy, Amur.

Amur liếm tay anh.

- Chẳng bao lâu nữa ta sẽ đem cô chủ về cho chú mày, cô ấy trốn đâu được cơ chứ. Chúng ta sẽ không cho trốn. Với lại, cô ấy cũng chẳng muốn trốn đâu, nếu như thầy trò mình quyết tâm tìm. Đúng không ?

Amur ngẩng đầu lên.

- Mai chúng ta đi đánh điện cho giám đốc Đênhixốp báo ông ấy chuẩn bị sẵn hai chỗ. Và tốt hơn cả là ngay ngày mai chúng ta gửi trả cậu Vaxin bức ảnh. Nhiều nhất cũng chỉ một tháng nữa ta sẽ dẫn cô ấy về đây cho chú mày. Cứ tin là như vậy.
Ngoài cửa sổ yên tĩnh tinh khiết. Anh đứng tì trán vào cánh cửa giá lạnh ngắm nhìn tuyết rơi và bằng toàn bộ thân thể mình cảm thấy rất rõ là ở một nơi xa xôi, dưới trời mưa thu lạnh lẽo hay tuyết ẩm băng giá (có lẽ còn lâu tuyết nơi ấy mới se khô như thế kia) vẫn vươn cao một cây thuỳ dương nguyên thuỷ khoẻ mạnh, tự muôn thuở vẫn suy nghĩ đến mọi loài, yếu cũng như mạnh, hằng lo toan cho vạn vật chúng sinh, cho tất cả ai ai sẽ đến mặt đất này sau khi nó đã hoàn thành sứ mạng và gục ngã trên bến bờ do chính nó sinh ra.

Anh sẽ tìm thấy em !

Anh sẽ tìm thấy !

Sẽ tìm thấy!


Hết

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét