Bài đã được xuất bản.: 31/08/2010 06:00 GMT+7
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái gốc lớn
mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có thể
không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
LTS: Tiếp theo bài Tướng Trung Quốc bàn về niềm tin và đạo đức, (TVN, ngày
15/8/2010), cộng tác viên Nguyễn Hải Hoành lại vừa gửi Tuần Việt Nam chúng tôi
bản dịch tiếp theo bài của Lưu Á Châu bàn về văn hóa Trung Quốc. Nhận thấy đây
là chủ đề thú vị về văn hóa một dân tộc, tôn trọng tính thông tin đa chiều,
Tuần Việt Nam xin trân trọng đăng tải.
Ngày nay Trung Quốc đang
tiến những bước dài, đồng thời cũng để lộ ra không ít vấn đề. Tất cả mọi vấn đề
đều hướng về văn hoá, song tất cả mọi vấn đề về văn hoá đều hướng vào tôn giáo.
Tôn giáo quyết định văn
hoá mà văn hoá thì quyết định tính cách dân tộc; tính cách dân tộc lại quyết
định số phận dân tộc.
Xin nêu thí dụ chống
tham nhũng. Trừng trị tham nhũng không thể diệt được tận gốc nạn tham nhũng. Có
một biện pháp là hoàn thiện chế độ xã hội, mà phương pháp căn bản là bắt tay từ
văn hoá.
Thí dụ biện pháp
"lương cao nuôi dưỡng sự liêm khiết". Tại Trung Quốc, lương cao chưa
chắc đã có thể nuôi dưỡng được sự liêm khiết. Tại sao thế?
Văn hoá Trung Quốc có
màu sắc "văn hoá gia đình" rất nặng. Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại
(Trong 3 điều bất hiếu, điều lớn nhất là không có con nối dõi - ND). Càng nhiều
con cháu càng lắm phúc. Đời cha nhất định phải để dành tiền của cho con cháu.
Điều này khác hẳn văn hoá phương Tây. Những kẻ làm cha như chúng ta, lương bổng
bản thân có cao đến đâu cũng vẫn muốn để dành cho con, bởi thế người ta vẫn cứ
tham. Đây cũng là một nguyên nhân hình thành "văn hoá hối lộ" trong
quan trường Trung Quốc.
Sự hình thành văn hoá
Trung Quốc có 3 nhân tố chủ yếu: Thứ nhất là hoàn cảnh sinh tồn; thứ hai là tôn
giáo; thứ ba là chính sách ngu dân.
Hoàn cảnh sinh tồn
Từ xưa tới nay, số dân
trên mảnh đất Trung Quốc này đều nhiều hơn châu Âu. Đàn bà Trung Quốc bị
"văn hoá gia đình" biến thành máy đẻ.
Châu Âu có diện tích
bình quân đất đai trên đầu người cao hơn Trung Quốc rất nhiều thế mà họ vẫn cảm
thấy chật hẹp, không thở hít được nữa, phải khai thác vùng đất mới, bởi thế mà
có việc khám phá các đại lục mới.
Người Trung Quốc thì
tranh đấu trong hoàn cảnh ác liệt này. Phép sinh tồn rất khắc nghiệt.
Nhưng khi nói về hình thành văn hoá mà chỉ nhấn mạnh hoàn cảnh là
chưa đủ. Hoàn cảnh xấu tạo nên một loại văn hoá không thành công. Hoàn cảnh tốt
cũng vẫn có thể tạo dựng nên một loại văn hoá không thành công.
Tôn giáo
Trung Quốc có ba tôn
giáo chính là Phật Giáo, Đạo Giáo và Nho Giáo (tôi gọi Nho Học là một loại tôn
giáo). Ba tôn giáo này có trách nhiệm không thể thoái thác đối với với sự hình
thành trạng thái tâm lý và đạo đức ngày nay của người Trung Quốc. Lịch sử cho
thấy ba tôn giáo trên căn bản không thể chấn hưng được dân tộc Trung Hoa.
Xin để tôi so sánh đối
chiếu Ki Tô Giáo với tôn giáo của Trung Quốc.
Văn hoá Trung Quốc dạy
chúng ta "Nhân chi sơ, tính bản thiện" (con người lúc mới ra đời có
bản tính lương thiện - ND). Tôn giáo của phương Tây thì ngược lại, cho rằng con
người sinh ra đã là xấu (nguyên văn chữ Hán: ác - ND), bản tính con người cũng
xấu. Bởi vậy, tôn giáo phải hạn chế anh, bắt anh suy ngẫm về chính mình. Văn
hoá phương Tây cho rằng loài người có tội tổ tông. Lòng người đen tối.
Trong số các đồng chí có
người đã trải qua "Cách mạng Văn hoá", xin hỏi cái đen tối nhất ở
đâu? Cái đen tối nhất thì ở trong lòng người. Tâm hồn mỗi người đều có mặt vô
cùng bẩn thỉu. Văn hoá phương Tây mổ xẻ, hé lộ nó ra, trưng nó ra. Phê phán nó,
kiềm chế nó. Văn hoá phương Đông thì ôm ấp nó, nuôi dưỡng nó. Nhà thờ ở phương
Tây có phòng xưng tội (nguyên văn: sám hối - ND). Người ta vào nhà thờ trình
bày với thánh thần các thứ trong tâm hồn mình.
Nói cho thần thánh nghe
mọi cái xấu xa bẩn thỉu của mình thì người ta thấy nhẹ nhõm. Tâm hồn người ta
được rửa sạch. Hồi sang Mỹ tôi có vào nhà thờ ngồi hẳn một ngày trời. Tôi phát
hiện thấy một cảnh rất thú vị: Mọi người ai nấy khi vào nhà thờ thì mặt mày ủ
ê, khi đi ra thì sắc mặt thư thái nhẹ nhõm. Về sau tôi mới dần dà hiểu được bí
quyết của chuyện ấy. Lâu ngày, người ta trở thành thành con người lành mạnh,
con người có tâm trạng và tâm hồn đặc biệt kiện toàn. Con người ai cũng có ham
muốn. Nhưng người ta phải kiềm chế ham muốn của mình, ai nấy ắt phải tự mình
(chứ không phải người khác) kiềm chế bản thân.
Người Trung Quốc không biết kiềm chế mình, không
biết tra khảo bản thân, thế là người ta đi kiềm chế kẻ khác, tra khảo kẻ khác.
Quất roi và tra khảo bản thân là chuyện đau khổ. Chỉ khi nào trong lòng mình
mãi mãi có tín ngưỡng, có tín ngưỡng vĩnh hằng với thần thánh, thì mới có thể
làm được như thế.
Rất nhiều đồng chí đã đi thăm nhà thờ ở phương
Tây. Ở đấy thánh thần xuất hiện với hình ảnh đầm đìa máu, chịu khổ chịu nạn.
Jesus bị đóng đinh trên giá chữ thập. Đức Mẹ không đổ máu nhưng rơi lệ. Đấy
thực sự là hoá thân của con người, là hoá thân của sự khổ nạn và tư tưởng của
con người. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây nhìn vào tựa như thần thánh,
thực ra là con người. Cái chết của Jesus đã hoàn tất việc ngài lột xác (nguyên
văn: thoát biến - ND) từ thánh thần thành con người. Chỉ con người mới chết.
Nhưng thánh thần trong các đền miếu của Trung
Quốc thì mới là thánh thần. Bạn hãy xem hình ảnh các vị thần thánh ấy: Bụng
chảy xệ, nét mặt chẳng lo nghĩ gì sất, nhăn nhở cười cợt, thụ hưởng của thờ
cúng. Vị nào vị ấy ăn đến béo rụt đầu rụt cổ.
Người phương Tây đến nhà thờ là để sám hối.
Chúng ta lên đền lên chùa là để hối lộ. Chẳng phải thế hay sao? Vì muốn làm
được một chuyện gì đây, chúng ta khấn vái thần thánh, bỏ tiền mua mấy nén hương
thắp lên hoặc bầy lên mâm những thứ dân gian thường ăn như trái cây gì gì đó,
rồi im lặng cầu nguyện. Như thế chẳng phải hối lộ thì là gì?
Người phương Tây đến nhà thờ để giải thoát nỗi
khổ về tinh thần. Chúng ta lên đền chùa để giải quyết nỗi khổ trong đời sống
thực tế. Thần thánh trong tôn giáo phương Tây luôn luôn chịu khổ còn nhân dân
thì không chịu khổ. Thần thánh trong tôn giáo phương Đông thì hưởng thụ, còn
dân chúng thì chịu khổ. Đây là khác biệt lớn nhất giữa tôn giáo phương Đông với
phương Tây.
Ở nước ngoài, nhà thờ bao giờ cũng xây dựng tại
trung tâm đô thị, gần gũi với dân. Đền chùa Trung Quốc thì bao giờ cũng xây
dựng trong rừng sâu núi cao, xa rời dân. Tôi từng nói người Trung Quốc về cơ
bản là một dân tộc không có tín ngưỡng. Nói không có tín ngưỡng không phải là không
có hình thức tín ngưỡng. Ngược lại, những thứ người Trung Quốc tín ngưỡng thì
phức tạp nhất, người ta tin cả các đại sư khí công. Cái gì cũng tin lại chính
là chẳng tin cái gì hết.
Trong lòng người Trung
Quốc không có vị trí của một vị thần thánh vĩnh hằng. Nói sâu một chút, tức là
chẳng có sự mưu cầu theo đuổi tinh thần văn hoá có tính tận cùng! Loại người đó
không mở rộng phạm vi quan tâm của mình ra tới bên ngoài gia đình, thậm chí cá
nhân. Nếu mở rộng sự quan tâm ấy ra thì nhất định sẽ là làm hại kẻ khác. Một
dân tộc như vậy sao lại không "năm bè bảy mảng" kia chứ?
Tại phương Tây, khi trên đường có một chiếc xe
hỏng thì hầu như tất cả các xe khác đều dừng lại, người ta đến hỏi anh có cần
giúp đỡ gì không. Tại Trung Quốc thì hầu hết xe đều bỏ đi, khó khăn lắm mới có
người dừng xe hỏi anh, có lẽ tôi còn ngờ vực, anh làm gì thế? Anh có mục đích
gì.
Phương Tây đã thắng
trong cuộc cạnh tranh với phương Đông cả nghìn năm nay. Tôn giáo phương Tây đã
thắng trong cuộc cạnh tranh với tôn giáo phương Đông.
Thắng lợi của tôn giáo
là thắng lợi thế nào? Tôi cho rằng đó là một loại thắng lợi về tinh thần. Không
có tín ngưỡng thì không có sức mạnh tinh thần. Cái chúng ta thiếu lại chính là
cái người ta có.
Hãy nói về chuyện xây
đền chùa. Phương Tây khi xây đền chùa thường là bạt hẳn một quả đồi. Đó là một
kiểu khí thế, một kiểu dũng khí đấu tranh với thiên nhiên. Người Trung Quốc xây
đền chùa thường hay xây trong núi sâu. Xem ra là hoà nhập cùng núi rừng thành
một khối, trên thực tế là một kiểu đầu cơ.
Có một bức tranh cổ tên
là Ngôi chùa cổ trong núi sâu, rất nổi tiếng, nhưng nhìn vào tranh chẳng
thấy một bức tường hay một viên ngói nào cả. Bức tranh vẽ gì vậy? Một lối mòn
chạy giữa hai quả núi, một nhà sư quẩy đôi thùng đi gánh nước. Rốt cuộc bức hoạ
có ý gì? Là nói ngôi chùa cổ trong núi sâu, chùa và núi hoà làm một với nhau.
Chúng ta khẳng định rằng ý của bức hoạ rất khôn khéo.
Người Trung Quốc có tâm
lý đầu cơ rất nặng, ai cũng chỉ muốn không làm mà hưởng. Ngày nay, trong thời
đại cải cách mở cửa, có biết bao nhiêu người lao vào biển thương mại, ai nấy
đều nghĩ "Ngày mai đến lượt mình [làm giàu] rồi". Họ muốn làm cái bộ
phận "ddể một số người giàu lên trước" ấy. Sau nhiều năm được giáo
dục "Vì nhân dân phục vụ" mà họ lại đều muốn trở thành đối tượng được
phục vụ.
Người Trung Quốc trước
đời Tần thì không như thế. Sau đời Hán, đặc biệt sau khi Lưu Triệt [1] độc tôn
Nho thuật (tức Nho học, Nho giáo - ND) thì người Trung Quốc đã thay đổi.
Tôi rất thích đọc bộ Sử
Ký. Đọc hết sách này mà chẳng thấy có đoạn nào viết về những kẻ phản bội. Ngày
nay chúng ta có biết bao nhiêu kẻ phản bội! Thời xưa có rất ít kẻ cáo giác.
Thời nay thì khắp nơi đều có!
Năm 1986 tôi sang Mỹ.
Đêm khuya ra đường, đèn tín hiệu giao thông bật đỏ, chẳng thấy chiếc xe nào
chạy cả, tất cả xe đều tự động dừng lại ở ngã tư. Tôi không hiểu, bảo người Mỹ
sao mà ngốc thế nhỉ. Về sau tôi mới biết đấy là sự tự kiềm chế của họ. Kiềm chế
bản thân là cứu vớt tâm hồn. Việc nhỏ đã thế, việc lớn lại càng thế.
Người Nhật nói, trận địa Trung Quốc rất dễ bị
chọc thủng. Lê Minh [4] nói rất hay: "Tôn giáo Trung Quốc biến dân chúng
thành bầy cừu."
Đều là cố thủ trận địa, người phương Tây tuy
cũng sợ nhưng họ có thể kiềm chế bản thân. Chúng ta thì sao? Trước hết là mong
người khác làm bia đỡ đạn. Thấy người khác bỏ chạy thì nghĩ, vì sao mày chuồn?
Tao cũng chuồn. Mày đi lính ngụy no nê cơm rượu, tao cũng đi. Mày tham ô, tao
cũng tham ô. Tao không chịu kém mày. Tại các nước phương Tây không phải không
có chuyện ăn hối lộ nhưng nhìn chung ít hơn chúng ta. Khi nhận hối lộ, lương
tâm và tinh thần người ta sẽ ràng buộc họ.
Phó Chủ tịch Trì Hạo
Điền [5] có kể một chuyện để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với tôi. Ông kể,
trong thời kỳ chống Nhật vùng căn cứ địa Giao Đông có bảy tám tên lính Nhật vác
cờ mặt trời (tức quốc kỳ Nhật - ND) đi càn, ba bốn chục nghìn quân dân căn cứ
địa bỏ chạy hết. Sói đuổi cừu mà.
Trên xe buýt một cô gái bị cướp, xe đầy ắp người
mà chẳng ai ho he. Cô gái xúc động thốt lên: "Cha tôi kể năm xưa một tên
giặc Nhật cai quản cả một huyện của chúng ta. Ngày ấy tôi không tin, bây giờ
thì tin rồi."
Hồi "Cách mạng Văn
hoá", ga xe lửa lúc nào cũng đông nghịt. Khi tàu đến, người ta chen nhau
ùa vào ga lên tàu. Một cô nhân viên soát vé nói: Các ông bà đông thế này, một
đứa con gái như tôi không thể nào giữ được ai, mà tôi cũng chẳng muốn làm thế.
Bắt giữ ai nào? Giữ người đầu tiên chen vào. Thế là ai nấy ngoan ngoãn xếp
hàng.
Chính sách ngu dân
Tôn giáo Trung Quốc có
mấy loại, tuy khác nhau về tư tưởng nhưng trên mặt chủ nghĩa chống hiểu biết
hoặc chủ trương ngu dân thì đều như nhau. Chính vì thế mà tôn giáo mới được
tầng lớp thống trị coi trọng. Dưới sự giáp công của văn hoá tôn giáo và chính
sách ngu dân của lực lượng hống trị, người Trung Quốc hình thành quần thể như
ngày nay. Người Trung Quốc giỏi nhất về
chuyện ca tụng công đức, thứ nhì là tố giác, thứ ba là giở thủ đoạn, cuối cùng
là khôn ngoan bo bo giữ mình (nguyên văn: minh triết bảo thân - ND).
Người Mãn Thanh thống trị Trung Quốc thành công
nhất. Họ hiểu rõ đặc tính quan trường của người Trung Quốc: Dốc lòng trung
thành với cá nhân, không trung thành với nhà nước.
Trong việc thống trị ba
dân tộc Hán, Mông, Tạng ở Trung Quốc, người Mãn Châu nhằm vào các đặc điểm khác
nhau của ba dân tộc này để sử dụng những mánh khoé khác nhau. Người Tây Tạng
tin Phật Giáo, triều đình nhà Thanh cho dựng ngay tại Thừa Đức [6] một ngôi
chùa phỏng theo kiểu chùa Tây Tạng, đón Lạt Ma về kinh đô làm ông lớn. Người
Mông Cổ nhanh nhẹn dũng mãnh thì dùng thủ đoạn hôn nhân, gả con gái hoàng tộc
cho vương công Mông Cổ, đẻ ra con trai thì nó là cháu ngoại. Đối với người Hán
thì dùng khoa cử. Người Hán có tật thích làm quan. Chỉ cần cho làm quan, tựa
như quẳng khúc xương cho con chó, là cúi đầu cụp tai ngoan ngoãn nghe theo.
Hồi tôi sang Mỹ, thày hướng dẫn tôi là người
chuyên nghiên cứu về Mao Trạch Đông. Ông ấy cho rằng trong đời mình, Mao Trạch
Đông tổng cộng làm được 31 việc. Nghiên cứu kỹ 31 sự việc này, tôi phát hiện
thấy trong đó có 20 sự việc liên quan tới huỷ hoại tinh thần và đạo đức con
người.
Đến năm 1966, cuối cùng Mao Trạch Đông phát động cuộc Cách mạng
Văn hoá chưa từng có trong lịch sử, làm cho kinh tế Trung Quốc đi tới bờ vực
sụp đổ, càng làm cho phẩm chất đạo đức của nhân dân toàn quốc hạ thấp xuống tới
mức đáng sợ, nhà nước mấy lần sa vào tình cảnh muôn đời không phục hồi được.
Tinh thần là cái gốc lập mệnh của mỗi con người, là cái
gốc lớn mạnh của một dân tộc, cái gốc sinh tồn của một quốc gia. Cái gì cũng có
thể không có nhưng tinh thần thì không thể không có.
Cách đây ít lâu khi
xuống sư đoàn 33 Không quân, tôi có đến thăm trại tập trung Tra Tử Động. Nhiều
liệt sĩ như Chị Giang [12] đã hy sinh tại đây. Hồi ấy nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa đã thành lập. Chị Giang đang ở trong tù mà vẫn thêu một lá cờ đỏ năm
sao. Chị chưa biết mẫu của cờ đỏ năm sao như thế nào, cho nên đã thêu ngôi sao
lớn nhất vào chính giữa lá cờ, 4 ngôi sao nhỏ ở 4 góc.
Khi bọn Quốc Dân Đảng
chuẩn bị làm cuộc đại tàn sát tù nhân thì Quân Giải phóng đã tiến tới gần Bạch
Thị Dịch. Đội du kích Hoa Doanh Sơn bắt được liên lạc với Quân đoàn 47. Đội du
kích nói: Các đồng chí mau tiến quân đi, trại tập trung Tra Tử Động sắp hành
quyết các chính trị phạm. Nhưng Quân Giải phóng cho rằng đội viên du kích Hoa
Doanh Sơn là tên lừa đảo, có thể là bẫy kẻ địch cài, cho nên họ không hành
động. Kết quả là cuộc tàn sát bắt đầu. Các liệt sĩ hiên ngang đi tới chỗ chết.
Có người nói, thật đáng
tiếc, các liệt sĩ ấy đã không nhìn thấy nước Trung Quốc mới. Mục tiêu phấn đấu
mà họ theo đuổi sắp được thực hiện thế mà họ lại không được nhìn thấy. Tôi bảo
anh nhầm rồi. Nói thực lòng, họ vô cùng hạnh phúc. Tín ngưỡng trong lòng họ sắp
được thực hiện, chết vào lúc đó không phải là nỗi đau mà là một niềm hạnh phúc.
Những người còn sống sót
mới thực sự đau khổ. Họ nhìn thấy nước cộng hoà nhân dân được thành lập, sau đó
là các phong trào chống phái hữu, tam phản ngũ phản, "Cách mạng Văn
hoá", những người bị cái đảng mà mình hiến dâng tính mạng hành hạ mình
chết đi sống lại ấy mới là những người đau khổ nhất. Chết, chết không được.
Sống, sống không thành. Cuối cùng để mất niềm tin và tín ngưỡng, chẳng khác gì
cái thây ma biết đi.
Đảng
viên cộng sản mất tín ngưỡng thì là cái gì? Hãy nhìn bọn quan tham nhũng hiện
nay thì khắc rõ. Bọn chúng tên nào cũng sợ chết, quan càng to càng sợ chết. Thứ
trưởng Bộ Công an Lý Kỷ Châu khi bị bắt còn hung hăng lắm. Hắn nói: "Nếu
tôi có vấn đề thì phải đem chém đầu một nửa Bộ Chính trị!" Đến lúc chuẩn
bị đưa đi xử bắn, hắn quỳ xuống van xin: "Xin cho tôi một con đường
sống."
Nguyễn Hải Hoành lược dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét